Xu Hướng 9/2023 # 6 Bài Soạn: “Thầy Thuốc Giỏi Cốt Nhất Ở Tấm Lòng” Lớp 6 Hay Nhất # Top 14 Xem Nhiều | Hwmn.edu.vn

Xu Hướng 9/2023 # 6 Bài Soạn: “Thầy Thuốc Giỏi Cốt Nhất Ở Tấm Lòng” Lớp 6 Hay Nhất # Top 14 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết 6 Bài Soạn: “Thầy Thuốc Giỏi Cốt Nhất Ở Tấm Lòng” Lớp 6 Hay Nhất được cập nhật mới nhất tháng 9 năm 2023 trên website Hwmn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 6

I. Đọc – hiểu văn bản:

Câu 1: Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ đó:

a. Trả lời các câu hỏi sau:

– Những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm:

+, Đem hết của cải ra mua thuốc, tích trữ thóc gạo để vừa nuôi ăn, vừa chữa bệnh cho người nghèo khổ.

+, Không quản ngại những người bệnh có dầm dề máu mủ.

+, Cứu sống hơn ngàn người trong năm đói kém.

+, Đi chữa bệnh cho dân thường trước rồi mới chữa đến vua.

– Vị Thái y lệnh là người: hết lòng vì người bệnh, lương y như từ mẫu.

– Trong những hành động của ông, điều làm em cảm phục nhất là Thái y nhận đi chữa bệnh cho người dân thường nhưng nguy kịch trước rồi mới đi chữa bệnh cho vua.

Đây là lời đối đáp vừa khiêm nhường vừa thấm thía lí tình: cứu người dân thường lâm bệnh nguy cấp, nếu không cứu ngay thì chết, tính mệnh của người bệnh còn quan trọng hơn tính mạng của bản thân thầy thuốc.

Câu 2:

*Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào? Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao?

Nhà vua lúc đầu tức giận nhưng sau khi nghe Thái y lệnh nói rõ đầu đuôi câu chuyện thì đã hết giận và ca ngợi Thái y lệnh. Điều đó chứng tỏ răng Trần Anh Vương là một ông vua thương dân, có lòng nhân đức.

Câu 3: Qua câu chuyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì?

Người làm y hôm nay cần phải trước hết cần trau dồi kiến thức, giữ gìn và luôn luôn phải giữ lương tâm nghề nghiệp trong sáng như từ mẫu, không được bên trọng bên khinh, bên cứu giúp, bên thờ ơ. Ngoài ra, phải hiểu rộng, biết nhiều, tu luyện chuyên môn cho giỏi. Vì nghề y là nghề chữa bệnh cứu người.

Câu 4: So sánh nội dung y đức được thể hiện ở văn bản “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” với văn bản kể về Tuệ Tĩnh.

Cả 2 văn bản đều biểu dương y đức cao đẹp của người thầy thuốc trước những quyền lực của xã hội.

Tuy nhiên, so với truyện về Tuệ Tĩnh thì truyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” nội dung y đức được kể cụ thể và phong phú, sâu sắc hơn.

+, Với Thái y lệnh họ Phạm, ngoài câu chuyện nhà vua cho quan trung sứ gọi vào cung chữa bệnh cho vị quý nhân, còn có những chuyện trước sau còn truyện về Tuệ Tĩnh chỉ kể về cách xử sự của ông khi có con nhà quý tộc đến mời chữa bệnh.

+, Tình huống gay cấn xảy ra đối với Thái y lệnh cũng gay gắt so với Tuệ Tĩnh: vì Thái y là đụng độ với cả vua còn ở Tuệ Tĩnh mới chỉ đụng độ đến người có chức cao hơn.

+, Cuộc đụng độ trực tiếp của Thái y lệnh với vị quan trung sứ gay gắt hơn rất nhiều so với Tuệ Tĩnh và con nhà quý tộc.

II. LUYỆN TẬP:

Câu 1:

*Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải là: giỏi trong nghề nghiệp vừa phải có tâm, có lòng nhân đức.

*Nội dung trên giống với lời thề của Hi-pô-cờ-rát: vì cả hai đều đề cao y đức, đều muốn cứu giúp, chữa trị bệnh cho mọi người và đặc biệt là người nghèo.

– Cách dịch đầu tiên “thầy thuốc giỏi ở tấm lòng” đúng nhưng chưa đủ. Nếu thầy thuốc chỉ có lòng tốt mà không giỏi nghề thì có khi giết oan người mất.

– Cách dịch còn lại “thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” chú trọng đến y đức nhưng chú trọng cả chuyên môn. Người thầy thuốc chân chính là phải giỏi chuyện môn và luôn có tấm lòng nhân ái.

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 5

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 6

Tìm hiểu chung tác phẩm

Tác giả:

Câu 1: Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh…

Hãy kể ra những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm. Từ đó trả lời các câu hỏi:

a. Thái y lệnh là người thế nào? Điều gì làm cho em cảm phục và suy nghĩ nhiều nhất?

Trả lời:

Những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm:

Điều khiến em cảm phục nhất về hành động của ông là ông đem hết của cải trong gia đình để mua thuốc, mua gạo cứu chữa những bệnh nhân. Điều này thể hiện y đức của người thầy thuốc vô cùng cao quý.

b. Phân tích lời đối thoại của Thái y với vị quan Trung sứ:

Câu 2: Trước cảnh xử sự của Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào?…

Trước cảnh xử sự của Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào? Qua đó nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao?

Trước cách xử sự của Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương từ chỗ quở trách, chuyển sang mừng rỡ, khen ngợi: “Ngươi thật là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, thương xót con đỏ của ta, thật xứng với lòng ta mong mỏi”.

Câu 3: Qua câu chuyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” có thể rút ra cho người làm nghề…

Qua câu chuyện “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” có thể rút ra cho người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì?

Qua tấm gương của người lương y Phạm Bân, ta có thể rút ra những bài học cho người thầy thuốc hôm nay và tương lai:

Hãy so sánh nội dung y đức được thể hiện qua văn bản “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” và văn bản kể về Tuệ Tĩnh.

Câu 1: Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương…

Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải giỏi cả về nghề nghiệp cả về lòng nhân đức, thương xót đám con đỏ.

So sánh với lời thề Hi-pô-cờ-rát, đều đề cao chữ “tâm”, thể hiện tấm lòng của người thầy thuốc với người nghèo khổ, riêng sự mong mỏi của Trần Anh Vương còn có yêu cầu về tay nghề người thầy thuốc phải giỏi.

Câu 2: Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm…

Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm. Có sách dịch nhan đề trên là thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vậy có gì khác nhau? Em tán thành cách nào? Lí do?

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 5

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 4

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 5

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Tóm tắt truyện

Ông Phạm Bân có nghề gia truyền, giữ chức Thái y lệnh phụng sự Trần Anh Vương. Ông đem của cải mua thuốc tốt và tích trữ thóc gạo chữa trị cho người nghèo. Năm đói kém ồng cứu sống hơn ngàn người, được mọi người quý trọng.

Một hôm có người dân đến xin ông chữa gấp. Đang lúc đó thì sứ giả của Trần Anh Vương triệu ông vào cung khám cho một quý nhân bị sốt. Ông đã đi chữa cho người đàn bà nguy kịch. Sau khi cứu sống người đó, ông đến bày tỏ lòng thành với Vương. Vương từ quở trách chuyển sang khen ngợi ông “là bậc lương y chân chính đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức”.

Con cháu của ông sau đều làm quan lương y, được người đời khen ngợi.

2. Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng là một truyện trung đại ghi chép chuyện thật, ca ngợi phẩm chất cao quý của vị – Thái y lệnh họ Phạm, người thầy thuốc có tấm lòng thương yêu người bệnh nghèo, quyết tâm cứu sống người bênh, không sợ quyền uy, không sợ nguy hiểm cho bản thân mình.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN

Câu 1. – Các chi tiết về Thái y lệnh:

+ Đem hết của cải trong nhà ra mua các loại thuốc tốt và tích trữ thóc gạo, chữa trị, cấp cơm cháo cho kẻ cơ khổ.

+ Dựng nhà cho những người đói khát và bệnh tật, cứu sống hơn nghìn người.

+ Đi chữa cho người đàn bà bệnh nặng trước, cho quý nhân ở trong cung sau, không ngại mắc tội với Trần Anh Vương.

+ Được Trần Anh Vương khen ngợi.

– Qua các chi tiết đó, ta thấy Thái y lệnh là người đức độ, có tấm lòng yêu thương người bệnh nghèo, quyết tâm cứu giúp bệnh nhân nguy kịch, không ngại nguy hiểm đến tính mạng của mình.

– Chi tiết về việc Thái y lệnh từ chối vào cung, đi khám và chữa cho người bệnh nặng trước, bất chấp lời đe doạ của quan Trung sứ: “Ông định cứu tính mạng người ta mà không định cứu tính mạng mình chăng ?” làm cho ta cảm phục nhất. Ở đây việc cứu cho người bệnh nặng được đặt lèn hàng đầu. Còn sự nguy hiểm cho bản thân, Thái y lệnh tự chịu trách nhiệm, nhưng ông hi vọng là Vương sẽ hiểu và tha thứ. Ông đã nhận phần nguy hiểm về mình để cứu người bệnh, chứ không vin cớ “trọn đạo làm tôi” để bỏ mặc người bệnh.

Câu 2. Trước cách xử sự của Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương thay đổi. Từ chỗ quở trách, chuyển sang mừng rỡ, khen ngợi: “Ngươi thật là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp lại có lòng nhân đức, thương xót con đỏ của ta, thật xứng với lòng ta mong mỏi”.

Như vậy Trần Anh Vương là một người sáng suốt, rộng lượng, đã không hẹp hòi vì chuyện Thái y lệnh không làm theo ngay ý mình, lại còn khen ngợi ông là thầy thuốc chân chính.

Câu 3. Có thể rút ra cho người làm nghề y hôm nay và mai sau các bài học:

– Thương yêu, giúp đỡ người bệnh nghèo,

– Người bệnh nặng cần chữa trị ưu tiên, bất kể địa vị của họ như thế nào.

– Người thầy thuốc hết lòng vì người bệnh, sẽ được mọi người tôn trọng và quý mến.

Câu 4. Nội dung y đức ở truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng và truyện về Tuệ Tĩnh có điểm giống nhau và điểm khác biệt:

– Người nào bệnh nặng cần giúp thì được ưu tiên chữa trước, mặc dù người đó có thể đến sau (truyện về Tuệ Tĩnh) hay đến trước {Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng).

– Cứu giúp người bệnh không mong trả ơn (cả hai truyện).

– Dù nguy hiểm đến tính mạng, nhưng vẫn đặt nhiệm vụ cứu sống người bệnh lên trên hết (Thầy thuốc giỏi cốt nhất ớ tấm lòng).

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Câu 1. Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải là người giỏi về nghề nghiệp, đồng thời có lòng nhân đức, thương xót dân nghèo.

Lòng nhân đức của Thái y lệnh không chỉ thể hiện trong việc cứu người đàn bà nguy kịch, mà còn thể hiện ở việc ông cấp cơm cháo, chữa trị cho người cơ khổ, cứu sống hơn ngàn người trong năm đói kém, dịch bệnh.

Nội dung đó cũng có phần giống như trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát ở việc sãn sóc miễn phí cho người nghèo, nhưng có nhấn mạnh hơn đến yếu tố giỏi nghề nghiệp.

Câu 2. Có hai cách dịch và có sự khác nhau ở hai cách dịch đó. Một bên chỉ nói tấm lòng, còn bên kia nhấn mạnh thêm hai chữ cốt nhất. Em có thể lựa chọn và nêu lên lí do sự lựa chọn của mình.

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 3

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 4

Giải câu 1, 2, 3, 4, 5 trang 88 Sách bài tập (SBT) Ngữ văn 6 tập 1. 1. Ví thử có nhận định rằng : Trước lệnh của nhà vua triệu vào cung chữa bệnh cho bậc quý nhân, Thái y lệnh đã có cách ứng xử vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo, vừa thông minh nhưng cũng vừa láu lỉnh. Em đồng ý điểm nào và không đồng ý điểm nào ? Vì sao ?

Bài tập

1. Ví thử có nhận định rằng : Trước lệnh của nhà vua triệu vào cung chữa bệnh cho bậc quý nhân, Thái y lệnh đã có cách ứng xử vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo, vừa thông minh nhưng cũng vừa láu lỉnh. Em đồng ý điểm nào và không đồng ý điểm nào ? Vì sao ?

3. Hãy đặt các nhan đề khác cho văn bản Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng mà không làm sai lệch ý cơ bản của nó.

Hãy phát biểu cảm nghĩ của em về ý nghĩa của hai dòng cuối cùng trong văn bản : “Về sau… không để sa sút nghiệp nhà”.

Gợi ý làm bài

Câu 1. Cần hiểu ý nghĩa của bài tập là nhằm rèn luyện năng lực nhận xét, lựa chọn những ý kiến với độ chính xác cao và cũng là khả năng phân biệt những điều đúng, sai bằng cách giải thích được tại sao đúng, tại sao sai, trong khi học văn.

– Đọc kĩ lại văn bản, chú ý đặc biệt đến những hành động, lời nói của nhân vật Thái y lệnh để từ đó suy nghĩ về tính cách của ông biểu hiện khi có lệnh của nhà vua.

– Gạch dưới những nét tính cách của Thái y lệnh được nêu lên trong lời nhận định trên.

– Nhận xét về sự đúng sai trong từng nét tính cách được nêu lên trong đó. Giải thích vì sao đúng, vì sao sai.

– Viết lại đầy đủ và chính xác những nét tính cách của Thái y lệnh qua ứng xử của ông.

Câu 2. Cần hiểu ý của bài tập là nhằm rèn luyện năng lực so sánh những vấn đề nội dung trong các văn bản, nêu lên những điểm giống nhau hoặc khác nhau, mức độ của từng nội dung vấn đề sao cho chính xác, khách quan, không thiên vị. Mặt khác, còn nhằm rèn luyện khả năng phán xét đúng, sai trước ý kiến của người khác một cách thoả đáng.

Cách tiến hành :

– Đọc kĩ lại văn bản, xem kĩ lại bài giảng truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng, ghi lại đầy đủ những nét phẩm chất cao đẹp trong y đức của nhân vật Thái y lệnh.

– Đọc kĩ lời thề của Hi-pô-cờ-rát và ghi lại những ý cơ bản thuộc nội dung y đức được nêu lên trong đó.

– So sánh nội dung y đức của nhân vật Thái y lệnh và nội dung y đức của Hi-pô-cờ-rát. Nêu lên những điểm chung và mức độ khác nhau giữa các nội dung đó.

– Phát biểu ý kiến về nhận định cho rằng, nội dung y đức của nhân vật Thái y lệnh cao hơn nội dung y đức trong lời thề của Hi-pô-cờ-rát.

Câu 3. Cần hiểu ý nghĩa của bài tập là nhằm rèn luyện năng lực chuyển hoá và lựa chọn cách diễn đạt ý tứ tối ưu trong việc học văn.

– Viết lại chính xác nhan đề truyện đã được ghi trong SGK.

– Suy nghĩ và viết thêm các nhan đề khác mà vẫn đảm bảo đúng ý cốt lõi cho nhan đề. Ví dụ : Tấm lòng là gốc rễ của nghề thầy thuốc,…

– Chọn một nhan đề mà em cho là thích đáng nhất.

Câu 4. Trước hết cần hiểu ý nghĩa của bài tập là nhằm rèn luyện năng lực phân tích và tống hợp trong khi học văn. Ở đây là phân tích lời thơ của Nguyễn Đình Chiểu và lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Từ đó tổng hợp và nêu lên những nét thuộc nội dung truyền thống y đức của dân tộc ta.

– Lần lượt phân tích từng văn bản trước khi tổng hợp nêu vấn đề y đức của dân tộc ta.

– Khi phân tích lời thơ của Nguyễn Đình Chiểu cần : đọc kĩ đoạn thơ ba, bốn lần. Gạch dưới những cụm từ, những câu thơ cần phân tích. Phân tích, làm rõ những ý quan trọng trong từng cụm từ, từng câu thơ đó. Tổng hợp, tìm ra những điểm chính trong nội dung y đức được Nguyễn Đình Chiểu nêu lên.

– Khi phân tích lời thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng cần : đọc kĩ lời thư ba, bốn lần. Gạch dưới những ý cần phân tích. Phân tích, làm rõ từng ý đó. So sánh mức độ giữa các ý. Tổng hợp, tìm những điểm chính trong nội dung y đức được Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên.

– Từ kết quả phân tích từng văn bản, tổng hợp nêu lên nội dung truyền thống y đức của dân tộc ta đã được Nguyễn Đình Chiểu, Hồ Chí Minh phát ngôn.

Câu 5. Cần hiểu mục đích của bài tập này là nhằm giúp các em bước đầu nhận thức được một vấn đề rất lớn trong cuộc sống là làm sao xây dựng được truyền thống gia phong, gia đạo vốn là một truyền thống vô cùng cao đẹp trong đạo lí làm người của dân tộc ta xưa.

– Đọc kĩ chú thích (17), trang 164, SGK và nhận xét xem địa vị xã hội của con cháu thuộc gia đình của vị Thái y lệnh là thế nào.

– Từ đó, suy rộng ra là vấn đề gia phong, gia đạo hiểu theo nghĩa là một dòng dõi gia đình có đạo đức, có văn hoá.

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 2

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 3

VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM1. Tác giảHồ Nguyên Trừng (1374-1446) tự Mạnh Nguyên, biệt hiệu Nam Ông, người Diễn Châu, Nghệ An, con trưởng của Hồ Quý Ly, làm quan dưới triều vua cha, từng hăng hái chống giặc Minh xâm lược, bị giặc Minh bắt (cùng cha, em và cháu) đem về Trung Quốc.Nhờ có tài chế tạo vũ khí (súng thần) nên ông được làm quan trong triều nhà Minh tới chức Thượng thư. Ông mất tại Trung Quốc.

2. Tác phẩm Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòngÔng Phạm Bân có nghề y gia truyền, giữ chức Thái y lệnh, phụng sự vua Trần Anh Vương. Ông thường đem tiền bạc mua thuốc tốt và tích trữ thóc gạo giúp đỡ người nghèo. Một hôm có người dân đến xin ông chữa bệnh gấp cho người nhà đang nguy kịch. Đúng lúc đó thì sứ giả của vua đến triệu ông vào cung chữa bệnh cho một quý nhân bị sốt. Thấy không gấp, ông đã đi chữa bệnh cho người đàn bà kia, sau đó đến tỏ lòng thành với vua. Khi hiểu rõ ý ông, vua từ quở trách chuyển sang khen ngợi ông “đã giỏi nghề nghiệp lại có lòng nhân đức”.Tóm tắtÔng Phạm Bân có nghề y gia truyền, giữ chức Thái y lệnh, phụng sự vua Trần Anh Vương. Ông thường đem tiền bạc mua thuốc tốt và tích trữ thóc gạo giúp đỡ người nghèo. Một hôm có người dân đến xin ông chữa bệnh gấp cho người nhà đang nguy kịch. Đúng lúc đó sứ giả đến triệu ông vào cung vua chữa bệnh cho một quí nhân bị sốt. Thấy không gấp, ông đã đi chữa bệnh cho người dân trước, sau đó đến tỏ lòng thành với vua. Khi hiểu ý ông, vua từ quở trách chuyển sang khen ngợi ông.Bố cụcBố cục: 3 đoạn- Đoạn 1 (Từ đầu … đến “người đương thời trọng vọng”): Giới thiệu Thái y lệnh Phạm Bân.- Đoạn 2 (Tiếp theo … đến “thật xứng với lòng ta mong mỏi.”): Y đức của Thái y lệnh.- Đoạn 3 (Còn lại): Hạnh phúc chân chính của bậc lương y.

Trả lời câu 1 (trang 164 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Hãy kể ra những, chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh họ Phạm trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Từ đó hãy trả lời các câu hỏi:

a) Vị Thái y lệnh là người thế nào? Trong những hành động của ông, điều gì làm em cảm phục nhất và suy nghĩ nhiều nhất?

Lời giải chi tiết:

* Những chi tiết nói về nhân vật Thái y lệnh:

+ Đem hết của cải ra mua các loại thuổc tốt, tích trữ thóc gạo để vừa nuôi ăn, chữa bệnh cho người nghèo khổ.

+ Không quản ngại bệnh máu mủ.

+ Cứu sống hơn ngàn người trong nhiều năm đói kém, dịch bệnh nổi lên.

+ Đi chữa bệnh cho dân thường trước rồi mới chữa bệnh cho nhà vua, dù có lệnh vua gọi.

a) Thái y lệnh là người hết lòng vì người bệnh, lương y như từ mẫu. Trong những hành động của ông, điều làm người đọc cảm phục nhất là Thái y nhận lời đi chữa bệnh cho người dân thường rồi mới đi chữa bệnh cho vua.

b) Lời đốì đáp của vị Thái y với quan trung sứ: “Tôi có tội, tôi xin chịu tội” vừa khiêm nhường vừa thấm thía lí tình: cứu người dân thường lâm bệnh nguy cấp, nếu không cứu ngay thì chết, tính mệnh của người bệnh còn quan trọng hơn tính mệnh của chính bản thân người thầy thuốc.

Trả lời câu 2 (trang 165 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Trước cách xử sự của vị Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương diễn biến như thế nào? Qua đó, nhân cách của Trần Anh Vương được thể hiện ra sao?

– Nhà vua lúc đầu tức giận nhưng sau khi nghe Thái y lệnh tường trình đã không những hết tức giận mà còn ca ngợi Thái y lệnh. Điều đó chứng tỏ Trần Anh Vương cũng là một ông vua có lòng nhân đức.

Trả lời câu 3 (trang 165 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Qua câu chuyện Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng có thể rút ra cho những người làm nghề y hôm nay và mai sau bài học gì?

Người làm nghề y hôm nay trước hết cần trau dồi, giữ gìn và vun trồng lương tâm nghề nghiệp trong sáng như từ mẫu; cùng với việc tu luyện chuyên môn cho tinh, giỏi. Vì nghề y là nghề trị bệnh cứu người.

Trả lời câu 4 (trang 165 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Hãy so sánh nội dung y đức được thể hiện ở văn bản Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng với văn bản kể về Tuệ Tĩnh (tr. 44).

Cả hai văn bản đều biểu dương y đức cao đẹp của người thầy thuốc trước quyền lực của xã hội thông qua hai tình huống gần giống nhau.

– Tuy nhiên, so văn bản thứ nhất với văn bản thứ hai thì ở văn bản thứ nhất nội dung y đức được kể lại phong phú, sâu sắc hơn, cụ thể:

+ Với vị Thái y lệnh người họ Phạm, ngoài câu chuyện nhà vua cho quan trung sứ gọi vào cung chữa bệnh cho vị quý nhân, còn có những chuyện trước và sau đó của ông, trong khi với Tuệ Tĩnh, chỉ kể chuyện xử sự của ông khi có con nhà quý tộc đến mời đi chữa bệnh.

+ Cuộc đụng độ trực tiếp giữa Thái y lệnh với vị quan trung sứ gay gắt hơn cuộc đụng độ giữa Tuệ Tĩnh với con nhà quý tộc.

LUYỆN TẬP

Trả lời câu 1 (trang 165 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

– Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương là giỏi nghề nghiệp, có lòng nhân đức.

– Nội dung trên giống với nội dung lời thề Hi-pô-cờ-rát (không lấy tiền thù lao quá đáng và sẽ săn sóc miễn phí cho người nghèo) ở chỗ: đều đề cao y đức lên trên hết, trước hết đối với tất cả những ai trong nghề chữa bệnh cứu người.

Nhan đề văn bản này nguyên văn chữ Hán là Y thiện dụng tâm (y: chữa bệnh, thầy thuốc; thiện: giỏi, tốt, lành; dụng: dùng, đem dùng; tâm: lòng, tấm lòng). Có sách dịch nhạn đề trên là Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng, ở đây dịch: Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng. Vậy có gì khác nhau? Em tán thành cách nào? Lí do?

Chữ Hán vốn rất hàm súc và cô đọng. Cụm từ Y thiện dụng tâm nếu dịch thành Thầy thuốc giỏi ở tấm lòng thì chưa rõ nghĩa.

Việc thêm vào trong câu hai từ cốt nhất sẽ làm cho câu rõ nghĩa hơn. Bởi để trở thành một thầy thuốc giỏi, người ta phải cần rất nhiều phẩm chất tốt (ví dụ nếu như tay nghề không giỏi thì chắc chắn không thể trở thành thầy thuốc giỏi được). Song phẩm chất cần được nhấn mạnh nhất đó là cái tâm của người chữa bệnh. Như thế, cách dịch Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng rõ ràng là chính xác hơn.

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 2

Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” số 1

Câu 1 (trang 164 sgk ngữ văn 6 tập 1)

a, Các chi tiết nói về Thái y lệnh:

+ Đem hết của cải, mua các loại thuốc tốt, tích trữ thóc gạo, chữa trị, cho cơm cháo cho người khổ

+ Dựng nhà cho người đói khát, bệnh tật, cứu sống nhiều người.

+ Chữa bệnh cho người bị nặng hơn, không ngại bị Trần Anh Vương quở trách.

+ Được Trần Anh Vương ngợi khen tấm lòng lương y

→ Thái y dốc hết lòng để cứu người, không sợ quyền y, địa vị. Y đức ngời sáng của người thầy thuốc được mọi người ngưỡng mộ, trọng vọng

b, Câu nói của quan Trung sứ của Thái y lệnh:

– Biết bản thân là Thái y phục vụ trực tiếp cho triều đình nên ngài nói “tôi có mắc tội”

– Qủa cảm chấp nhận sự trừng phạt nghiêm khắc nhất: “tội tôi xin chịu”

– Khẳng định việc cứu người quan trọng hơn tính mạng của mình.

→ Thái y lệnh đã yêu thương người bệnh cơ khổ hết mức. Ông quyết tâm cứu sống người bệnh, bất chấp mạng sống của bản thân

Câu 2 (trang 165 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Trước cách cư xử của Thái y lệnh, thái độ của Trần Anh Vương thay đổi:

+ Từ trách giận sang mừng rỡ

+ Ngợi khen: “Ngươi là bậc lương y chân chính, đã giỏi về nghề nghiệp còn có lòng nhân đức, thương xót con đỏ của ta”

→ Trần Anh Vương sáng suốt, rộng lượng, không hẹp hòi chuyện cá nhân mà còn ngợi khen tài năng, đức độ của Thái y lệnh.

Câu 3 (trang 165 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Những bài học về người làm nghề y:

– Thương yêu, giúp đỡ người bệnh

– Có tấm lòng bao dung, rộng lượng.

– Coi trọng con người, tính mạng con người.

– Người bệnh nặng cần chữa trị ưu tiên, bất kể địa vị của họ như thế nào

Câu 4 (trang 165 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Nội dung y đức trong truyện Thầy thuốc giỏi cốt ở tấm lòng và truyện về Tuệ Tĩnh:

– Thầy thuốc cứu giúp bệnh không mong được trả ơn.

– Người bệnh nào nặng thì cần ưu tiên chữa trị trước.

– Dù nguy hiểm tới tính mạng nhưng vẫn đặt nhiệm vụ cứu người bệnh lên trên hết.

Luyện tập

Bài 1 (Trang 165 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Một bậc lương y chân chính theo mong mỏi của Trần Anh Vương phải là người:

– Có lòng đức độ, biết thương xót dân nghèo, người bệnh

– Giỏi về nghề nghiệp

→ Lòng nhân đức của Thái y lệnh không chỉ thể hiện trong việc cứu người đàn bà nguy kịch mà còn thông qua việc chữa trị cho người cơ hàn, cứu sống mạng người lúc đói kém.

Bài 2 (trang 119 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Cách dịch thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng:

– Nhấn mạnh vào vai trò của y đức, nhân cách, bản chất thiện lương của người làm nghề y.

– Đề cao, xem trọng vai trò của y đức hơn cả chuyên môn.

Cách dịch thầy thuốc giỏi ở tấm lòng thì không nhấn mạnh được nội dung cần biểu đạt về lòng nhân hậu.

Đăng bởi: Bảo Bảo

Từ khoá: 6 Bài soạn: “Thầy thuốc giỏi cốt nhất ở tấm lòng” lớp 6 hay nhất

6 Bài Soạn “Thầy Bói Xem Voi” Lớp 6 Hay Nhất

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 1

Câu 1 (trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Năm ông thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ. Vì con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” một bộ phận của nó.

– Mỗi thầy phán về con voi một cách chính xác và sinh động:

– Thầy sờ voi thì thấy sun sun như con đỉa

– Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn

– Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình

– Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc

– Thầy sờ đuôi thì thấy tun tủn như cái chổi sể cùn

Thái độ của các thầy bói khi phán về voi:

– Ai cũng tin là mình nói đúng nhất

– Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình

– Không biết lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát đánh nhau.

Câu 2 (Trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Năm ông thầy bói sờ thấy voi thật nhưng không nắm được tổng thể của voi.

– Họ chỉ dùng “tay” để xem voi, dùng cách sờ soạng thay cho việc mắt nhìn

– Vì con voi quá to mỗi thầy chỉ xem được một bộ phận, chưa xem được toàn thể, nên tả lại con voi qua một bộ phận mình sờ thấy.

– Họ đã không cùng lắng nghe để bổ sung lẫn nhau, mà nhất quyết bảo thủ cho rằng ý kiến của mình đúng.

Câu 3 (trang 103 sgk ngữ văn 6 tập 1)

Bài học được rút ra trong bài Thầy bói xem voi:

– Phải tìm hiểu sự vật bằng các phương cách tiếp cận thích hợp

– Phải xem xét một cách khách quan, toàn diện

– Phải biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến người khác

– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 6

II. Đọc – hiểu văn bản:

Câu 1: Hãy nêu cách thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?

*Các cách thầy bói xem voi và phán về voi:

Cách xem voi của năm ông thầy là dùng tay để sờ vì mắt các thầy đều mù. Mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của voi (vòi, ngà, tai, chân, đuôi), sờ được bộ phận nào thì phán hình thù con voi như thể (như con đỉa, như cái đòn càn, như cái quạt, như cái cột nhà, như cái chổi sể cùn), tưởng đó là toàn bộ con voi.

*Thái độ của năm ông thầy bói khi phán về voi:

– Cả năm ông thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng khẳng định chỉ có mình là đúng và phủ nhận ý kiến của người khác. Cách phán này mang tính chủ quan, sai lầm.

– Năm ông không ai chịu nhường ai thành ra xô xát.

Câu 2: Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?

Câu 3: Truyện ngụ ngôn “Thầy bói xem voi” cho ta bài học:

– Muốn hiểu đúng và đầy đủ bất cứ một sự vật, sự việc gì, chúng ta cần phả xem xét, nhận xét, đánh giá một cách thận trọng, toàn diện, tổng hợp ý kiến của nhiều người. Chỉ có như vậy mới tránh được các sai lầm như những thầy bói trong truyện.

– Phải có cách xem xét sự vật phù hợp với sự vật đó và phù hợp với mục đích xem xét.

III. LUYỆN TẬP:

Kể một số ví dụ của em hoặc của bạn em đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai làm như kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của nó:

VD: Bạn em rất hay đem ra so sánh sự giàu – nghèo của hai bạn cùng lớp.

Nhưng sự thật không phải như vậy bạn A lại sinh ra trong một gia đình nghèo, do bố bạn bị bắt đi tù nên bạn mới như vậy.

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 6

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 5

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 6

I – KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Tóm tát truyện

Năm ông thầy bói nhân buổi ế hàng chung tiền biếu quản voi để xem voi. Mỗi người sờ một bộ phận của voi. Sau đó bàn tán.

– Thầy sờ vòi bảo voi sun sun như con đỉa.

– Thầy sờ ngà bảo voi chần chẫn như cái đòn càn.

– Thầy sờ tai bảo voi bè bè như cái quạt thóc.

– Thầy sờ chân cãi voi sừng – sững như cái cột đình.

– Thầy sờ đuôi nói voi tua tủa như cái chổi sể cùn.

Năm thầy cãi nhau không ai chịu ai, thành ra xô xát, đánh nhau toác đầu chảy máu.

2. Qua việc thuật lại cách xem voi và cuộc tranh luận, miêu tả voi của các thầy bói, truyện khuyên mọi người : Muốn tìm hiểu sự vật phải có cách tiếp cận thích hợp, phải xem xét toàn diện, không lấy bộ phận thay cho toàn thể, phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức.

II – HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN

Câu 1. Các thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ vì các thầy đều bị hỏng mắt. Bởi con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” được một bộ phận của nó. Vì thế khi nói về voi, mỗi thầy chỉ nói được đúng phần mình đã sờ thấy. Việc diễn tả khá chính xác và sinh động:

– Thầy sờ vòi thì thấy sun sun như con đỉa.

– Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn.

– Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc.

– Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình.

– Thầy sờ đuôi thì thấy tua tủa như cái chổi sể cùn.

– Ai cũng tin là mình nói đúng nhất.

– Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình.

– Không chịu lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát, đánh nhau.

Câu 2. Năm thầy bói đã tiếp xúc với voi thật, sờ thấy voi thật, nhưng không ai nói đúng về voi. Sai lầm của các thầy bói là ở chỗ:

– Họ đã dùng “tay” để xem voi, dùng cách sờ soạng thay cho mắt nhìn.

– Vì con voi quá to mỗi thầy chỉ xem được một bộ phận, chưa xem được toàn thể, nên tả lại cả con voi qua một bộ phận mình sờ thấy. Dù bộ phân đó là đúng, nhưng đó không phải là con voi, mà chỉ là vòi voi, ngà voi, tai voi, chân voi, đuồi voi mà thôi.

– Điều cuối cùng là họ không biết lắng nghe ý kiến của người khác. Nếu họ hỏi người quản tượng, kết hợp việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, họ sẽ biết được con voi là như thế nào.

Câu 3. Những bài học của truyện Thầy hói xem voi:

– Phải tìm hiểu sự vật bằng phương cách tiếp cận thích hợp (xem phải dùng mắt, xem bằng “tay” sẽ không tránh khỏi mò mẫm, sai sót).

– Phải xem xét và khái quát một cách toàn diện, không lấy cái bộ phận, cái đơn lẻ thay thê’ cho toàn thể.

– Phải biết lắng nghe, tiếp thu ý kiến của người khác.

– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức, như vậy chỉ có. thể dẫn đến toác đầu, chảy máu chứ không giúp hiểu biết về sự vật.

III – HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Có thể tìm đọc trong sảch vở, quan sát trong đời sống để tìm ra những trường hợp phán đoán, đánh giá sai theo kiểu “Thầy bói xem voi”.

Ví dụ 1: Khi em nghe được chuyện bạn An đã lấy cắp tiền của bạn Minh trong lớp, em đã vội vàng tin ngay dù không được chứng kiến điều đó. Chính vì vậy, em đã nghĩ bạn An là người không trung thực và không chơi với bạn từ đó. Các bạn trong lớp thường xuyên bàn tán và xa lánh An khiến bạn buồn khi bị cô lập. Đến vài ngày sau, khi Minh tìm được số tiền đó và An đã được minh oan.

Ví dụ 2: Giờ ra chơi, em vừa định mở của phòng học thì bạn Nam ở lớp bên cạnh mở mạnh cụng vào người em. Mặc dù, Nam xin lỗi nhưng em vẫn rất giận. Em gây rối với bạn ấy. Em đã cho rằng Nam là kẻ ưa gây gổ với bạn bè. Mãi cuối năm học, Nam là học sinh xuất sắc lại là người gương mẫu về tư cách tác phong trong quan hệ với bè bạn và thầy cô. Em đã thấy mình hiểu sai

Ví dụ 3: Trong giờ trả bài kiểm tra, Lan có điểm kiểm tra môn toán được 9 điểm. Trong các tiết học bình thường, Lan học kém hơn và chậm hiểu bài hơn các bạn. Vì vậy, các bạn ngồi bên cạnh xì xào rằng Lan đã chép bài của người khác hoặc Lan xem tài liệu may mắn nên mới đạt điểm cao. Khi nghe được điều đó, Lan đứng dậy và bạn giải thích rằng: Vì em biết em chưa học tốt môn Toán nên em đã cố gắng nỗ lực ôn tập tốt, dành nhiều thời gian để luyện tập các dạng bài toán. Do đó, bài kiểm tra vừa rồi em đã làm được đề bài cô ra. Sau đó bạn mong cô cho thêm một bài tập bất kì để bạn được chứng minh khả năng thực sự của mình. Bạn đã lên bảng và giải bài toán đó với đáp án đúng.

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 4

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 5

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Tóm tắt truyện: Năm ông thầy bói rủ nhau chung tiền biếu người quản voi để xem con voi có hình thù thế nào. Mỗi ông xem một bộ phận, cuối cùng cãi nhau, không ông nào chịu ông nào: ông xem vòi bảo voi sun sun như con đỉa; ông xem ngà bảo voi giống cái đòn càn; ông xem tai bảo nó giống cái quạt thóc; ông xem chân bảo voi sừng sững như cái cột đình; ông cuối cùng xem đuôi, bảo voi tun tủn như cái chổi sể cùn. Cãi nhau vì không thể phân thắng bại, năm ông đánh nhau toác đầu, chảy máu.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: (Trang 103 – SGK Ngữ văn 6 tập 1) Hãy nêu cách các thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 3

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 4

Bài 1 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1

Hãy nêu cách các thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán như thế nào?

Trả lời

– Năm ông thầy bói xem voi bằng cách lấy tay sờ. Vì con voi quá to nên mỗi thầy chỉ “xem” một bộ phận của nó.

Mỗi thầy phán về con voi một cách chính xác và sinh động:

Thầy sờ voi thì thấy sun sun như con đỉa

Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn

Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình

Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc

Thầy sờ đuôi thì thấy tun tủn như cái chổi sể cùn

– Thái độ của các thầy bói khi phán về voi:

Ai cũng tin là mình nói đúng nhất

Người sau bác bỏ người trước để khẳng định ý kiến của mình

Không biết lắng nghe ý kiến của nhau, từ bàn tán chuyển sang xô xát đánh nhau.

Bài 2 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1

Năm thầy bói đều đã được sờ vào voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?

– Sai lầm của các thầy bói là ở chỗ: đáng lẽ phải xem cả con voi thì mỗi thầy lại chỉ sờ được một bộ phận của voi và bảo rằng đó là con voi. Vòi, chân, tai, ngà, đuôi đúng là của con voi thật, nhưng mới chỉ là những bộ phận riêng lẻ, chưa phải là cả con voi.

– Nếu các thầy chịu khó lắng nghe ý kiến của nhau, hỏi quản tượng, kết hợp với việc miêu tả, nhận thức của mỗi người, các thầy sẽ biết con voi là như thế nào.

– Họ đã chủ quan trong việc nhận thức sự vật hiện tượng, tự cho là mình đúng, như vậy họ không chỉ mù mắt mà còn mù về phương pháp đánh giá, mù về sự nhận thức.

Bài 3 trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1

Truyện ngụ ngôn Thầy bói xem voi cho ta bài học gì?

Những bài học từ truyện Thầy bói xem voi:

– Khi xem xét một sự vật (hoặc sự việc) cần kết hợp các giác quan (tai nghe, mắt thấy…).

– Nếu không có điều kiện xem xét bằng đầy đủ các giác quan thì phải xem xét một cách toàn diện, không lấy cái bộ phận, đơn lẻ thay cho cái toàn thể.– Cần phải biết lắng nghe ý kiến của người khác, vừa nghe vừa kết hợp với phân tích, đánh giá, tổng hợp của riêng mình để có được một cái nhìn chính xác, toàn diện và đầy đủ nhất.

Câu hỏi luyện tập trang 103 SGK Ngữ văn 6 tập 1

Kể một số ví dụ của em hoặc của các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của những đánh giá sai lầm này.

Một số trường hợp có thể xảy ra như tình huống “Thầy bói xem voi”:

– Một bạn vô tình làm em ngã, em lại nghĩ rằng bạn có ý gây gổ cố tình đẩy ngã em.

– Bạn em mượn sách của em nhưng quên không trả và em nghĩ rằng bạn giả vờ quên để lấy luôn cuốn sách của em.

Tham khảo câu chuyện sau:

Khi em nghe được chuyện bạn An đã lấy cắp tiền của bạn Minh trong lớp, em đã vội vàng tin ngay dù không được chứng kiến điều đó. Chính vì vậy, em đã nghĩ bạn An là người không trung thực và không chơi với bạn từ đó. Các bạn trong lớp thường xuyên bàn tán và xa lánh An khiến bạn buồn khi bị cô lập. Đến vài ngày sau, khi Minh tìm được số tiền đó và An đã được minh oan.

Hậu quả: Em cảm thấy rất hối hận khi đã vội vàng kết luận về người khác dù không biết rõ sự việc. Sự đánh giá vội vàng của em đã dẫn đến những suy nghĩ sai lầm về tính cách và con người của bạn An.

Tổng kết

Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện Thầy bói xem voi khuyên người ta muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 3

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 2

Bài soạn “Thầy bói xem voi” số 3

Trả lời câu 1 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Hãy nêu các cách thầy bói xem voi và phán về voi. Thái độ của các thầy bói khi phán về voi như thế nào?

Lời giải chi tiết:

– Cách các thầy bói xem voi và phán về voi là: dùng tay để sờ vì mắt các thầy đều mù. Mỗi thầy chỉ sờ được một bộ phận của voi, sờ được bộ phận nào thì phán hình thù con voi như thế.

+ Thầy sờ vòi thì thấy sun sun như con đỉa

+ Thầy sờ ngà thì thấy chần chẫn như cái đòn càn

+ Thầy sờ chân thì thấy sừng sững như cái cột đình

+ Thầy sờ đuôi thì thấy tua tủa như cái chổi sể cùn

+ Thầy sờ tai thì thấy bè bè như cái quạt thóc.

– Thái độ của năm ông thầy bói khi phán về voi: Cả năm ông thầy bói đều phán sai về voi nhưng ai cũng một mực theo ý kiến chủ quan của mình và cho rằng ý kiến của người khác là sai.

Trả lời câu 2 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Năm ông thầy bói đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ nào?

Năm thầy bói đều đã được sờ voi thật và mỗi thầy cũng đã nói được một bộ phận của voi, nhưng không thầy nào nói đúng về con vật này. Sai lầm của họ là ở chỗ:

– Cả năm thầy đều có cách xem phiến diện: sờ một bộ phận nhưng đã nói cả con voi.

– Các thầy đều không chịu lắng nghe ý kiến của nhau mà chỉ một mực theo ý kiến chủ quan của mình.

Trả lời câu 3 (trang 103 sgk Ngữ Văn 6 Tập 1):

Bài học rút ra từ truyện:

– Muốn hiểu đúng và đầy đủ bất cứ một sự vật, sự việc gì, chúng ta cần phải xem xét, đánh giá một cách thận trọng, toàn diện.

– Không dùng vũ lực để giải quyết vấn đề nhận thức.

LUYỆN TẬP

Kể một số ví dụ của em hoặc các bạn về những trường hợp mà em hoặc các bạn đã nhận định, đánh giá sự vật hay con người một cách sai lầm theo kiểu “Thầy bói xem voi” và hậu quả của những đánh giá sai lầm này.

Trong giờ trả bài kiểm tra, Lan có điểm kiểm tra môn toán được 9 điểm. Trong các tiết học bình thường, Lan học kém hơn và chậm hiểu bài hơn các bạn. Vì vậy, các bạn ngồi bên cạnh xì xào rằng Lan đã chép bài của người khác hoặc vì Lan ôn “trúng tủ”, may mắn nên mới đạt điểm cao. Khi nghe được điều đó, Lan đứng dậy và bạn giải thích rằng: Vì em biết em chưa học tốt môn Toán nên em đã cố gắng nỗ lực ôn tập tốt, dành nhiều thời gian để luyện tập các dạng bài toán. Do đó, bài kiểm tra vừa rồi em đã làm được đề bài cô ra. Sau đó bạn mong cô cho thêm một bài tập bất kì để bạn được chứng minh khả năng thực sự của mình. Bạn đã lên bảng và giải bài toán đó với đáp án đúng.

Hậu quả: Như vậy, các bạn trong lớp đã không nhìn vào sự cố gắng thực sự của Lan để đánh giá mà suy luận, “đoán mò”. Khi đưa ra lời đánh giá một cách vội vàng, không hiểu bản chất của sự việc đã khiến cho bạn bị tổn thương.

Tóm tắt

Năm ông thầy bói mù góp tiền để xem con voi có hình thù thế nào. Mỗi ông sờ một bộ phận của voi. Ông sờ vòi bảo con voi sun sun như con đỉa; ông sờ ngà bảo con voi chần chẫn như cái đòn càn; ông sờ tai bảo con voi như cái quạt thóc; ông sờ chân nói con voi như cái cột đình; ông sờ đuôi lại bảo con voi tun tủn như các chổi sể cùn. Năm ông cãi nhau rồi đánh nhau toác đầu chảy máu.

Bố cục

Bố cục: 2 đoạn

– Đoạn 1 (Từ đầu đến “như cái chổi sể cùn”): Các thầy bói xem voi và phán về các bộ phận của con voi.

– Đoạn 2 (Còn lại): Hậu quả của việc phán voi.

Nội dung chính

Từ câu chuyện chế giễu cách xem và phán về voi của năm ông thầy bói, truyện khuyên người ta: muốn hiểu biết sự vật, sự việc phải xem xét chúng một cách toàn diện.

Đăng bởi: Hương Thảo Nguyễn Thị

Từ khoá: 6 Bài soạn “Thầy bói xem voi” lớp 6 hay nhất

6 Bài Soạn “Tình Yêu Và Thù Hận” Của Uy

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 1

Tóm tắt

Rô-mê-ô và Giu-li-et là vở bi kịch nổi tiếng gắn liền với tên tuổi của U.Sếch-xpia. ở thành Vêrôna nước ý có hai dòng họ phong kiến vốn có mối thù truyền kiếp với nhau là Mông-te-ghiu và Ca-piu-let. Chàng Rô-mê-ô là con trai họ Mông-ta-ghiu yêu Giu-li-et, con gái họ Ca-piu-let. Họ là một đôi trai tài gái sắc. Hai người làm lễ thành hôn thầm kín. Nhưng cùng trong ngày hôm đó, do một cuộc cãi lộn, Rô-mê-ô đâm chết Ti-bân, anh họ Giu-li-et và bị kết tội biệt xứ. Gia đình Giu-li-et ép nàng phải lấy bá tước Pa-rix. Nàng định tự sát, nhưng được tu sĩ Lô-rân giúp kế tránh cuộc hôn nhân đó: tu sĩ cho nàng một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết; sau khi gia đình đặt thi thể nàng vào hầm mộ, tu sĩ sẽ báo cho Rô-mê-ô đến cứu nàng trốn khỏi thành Vê-rô-na. Nhưng người của tu sĩ chưa kịp báo tin thì người nhà Môn-ta-ghiu lại đến trước báo cho Rô-mê-ô tin nàng Giu-li-et đã tự sát. Rô-mê-ô tưởng nàng đã chết, nên đã tự sát bên nàng. Giu-li-et tỉnh dậy, cũng tự sát theo. Và trước cái chết của hai người, hai họ đã quên mối thù truyền kiếp.

Tác phẩm kết thúc bằng cái chết của hai nhân vật chính và sự hoà giải của hai dòng họ. Một kết thúc đầy bi kịch nhưng âm hưởng chung của tác phẩm lại thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả đối với sự chiến thắng của lí tưởng nhân văn chủ nghĩa. Tình yêu say đắm thuỷ chung của hai người trẻ tuổi đã xoá bỏ những tập tục thành kiến và thù địch của hai dòng họ suốt hàng trăm năm.

Bố cục

– Phần 1 (6 lời thoại đầu): sự độc thoại bộc lộ tình yêu thầm kín của Romeo và Juliet

– Phần 2 (còn lại): cuộc đối thoại của Romeo và Juliet

Câu 1 (trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

Từ câu thoại 1-7: độc thoại, để hai nhân vật tự thổ lộ tình cảm của mình

Từ câu 8-16: lời đối thoại giữa hai người, Romeo- Juliet có cơ hội bộc trực tình cảm với nhau

+ Các hình ảnh so sánh thể hiện miêu tả vẻ đẹp của Juliet

+ Vượt lên định kiến của gia đình, nàng Juliet dám nói lên chân thành say đắm

+ Lời hẹn thề chứng tỏ thành kiến của phong kiến dần mất tác dụng

Câu 2 (trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

– Tình yêu của Ro-me-o và Giu-li-et diễn ra trong bối cảnh hai giọng thù địch:

+ Sự thù hận của hai dòng họ ngăn cách tình cảm của hai người

+ Nỗi ám ảnh thù hận xuất hiện ở nàng Giu-li-et nhiều hơn, nàng lo lắng cho mình và còn cả người yêu

+ Ro-me-o quyết liệt hơn, chàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ chọn tình yêu, chàng sợ mất Giu-li-et

→ Cả hai đều hiểu, và nói tới thù hận để cùng vượt lên rào cản, xây dựng tình yêu

Câu 3 (trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

Diễn biến tâm trạng của Ro-me-o với hình thức so sánh liên tưởng

+ Thiên nhiên được nhìn qua điểm nhìn của người đang yêu vì thế thiên nhiên như cộng hưởng, trân quý.

+ Tâm trạng yêu thương nồng cháy, đam mê, ngỡ như không có gì ngăn cản được Ro-me-o trèo tường đến bên dưới phòng ngủ của Giu-li-et

+ Mạch suy nghĩ của chàng hướng tới đôi mắt lên tiếng, đôi môi lấp lánh của người yêu

+ Khát vọng yêu đương mãnh liệt

→ Cảm xúc Ro-me-o là sự lãng mạn và cháy bỏng của người đang yêu và được yêu

Câu 4 (Trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

Tâm trạng Giu-li-et:

+ Thông qua lời độc thoại nội tâm

+ Nàng bộc lộ nỗi lòng của mình “hãy thề yêu em đi”, “chỉ có dòng họ chàng là thù địch của em”

+ Tình yêu thể hiện mãnh liệt, không giấu diếm

+ Nàng đối đáp với Ro-me-o chắc chắn tin vào tình yêu của chàng dành cho mình

+ Nỗi lo lắng giằng xé tâm can Giu-li-et

+ Chấp nhận tình yêu và hướng về Ro-me-o

→ Ngôn ngữ sống động đầy chất thơ, nhà văn thể hiện được diễn biến nội tâm phức tạp của người đang yêu

Tình yêu mãnh liệt trong trắng vượt lên sự thù hận truyền kiếp của hai dòng họ

Câu 5 (Trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

Tình yêu và thù hận được giải quyết trong mười sáu lời thoại:

Vấn đề thù hận: thù hận không xuất hiện như một thế lực cản trở tình yêu, thù hận chỉ thể hiện qua dòng suy nghĩ các nhân vật, song đó không phải động lực chi phối hành động của nhân vật

– Tình yêu của hai người vượt qua từ lời thoại 13- 15 trong đoạn trích

→ Tình yêu diễn ra trên cái nền thù hận, thù hận bị đẩy lùi chỉ còn tình đời, tình người bao la, giàu tư tưởng nhân văn

Luyện tập

Bài 1 (trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1):

Tình yêu và thù hận “ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”

Tác giả thể hiện diễn biến tâm trạng, nỗi lòng bồi hồi yêu thương của hai nhân vật Romeo và Juliet tài tình qua dòng độc thoại nội tâm và đối thoại

+ Tác giả muốn khẳng định tình yêu là thứ tình cảm tốt đẹp, kì diệu của con người, là tình cảm thiêng liêng, thể hiện con người và tâm hồn con người một cách chính xác

+ Ca ngợi tình yêu chân chính có thể vượt qua mọi rào cản, thù hận

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 2

A. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

1. Tác giả

2. Tác phẩm

Rô – mê -ô và Giu- li -ét là vở kịch nổi tiếng đầu tiên của Sếch -xpia, được viết vào khoảng những năm 1594 -1595, gồm năm hồi bằng thơ xn lẫn văn xuôi, dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù giữa hai dòng họ Môn – ta -ghiu và Ca- piu- lét, tại Vê -rô-na (I-ta -li-a) thời trung cổ. Romeo và Juliet được viết vào khoảng 1594 – 1595, dựa trên một cốt truyện có sẵn kể về một mối tình oan trái vốn là câu chuyện có thật, từng xảy ra ở Ý thời Trung Cổ.

Tóm tắt tác phẩm

Câu chuyện bắt đầu tại thành Verona, hai dòng họ nhà Montague và nhà Capulet có mối hận thù lâu đời. Romeo, con trai họ Montague và Juliet, con gái họ Capulet đã yêu nhau say đắm ngay từ cái nhìn đầu tiên tại buổi dạ tiệc tổ chức tại nhà Capulet, do là dạ tiệc hoá trang nên Romeo mới có thể trà trộn vào trong đó. Đôi trai gái này đã đến nhà thờ nhờ tu sĩ Friar Laurence bí mật làm lễ cưới.

Đột nhiên xảy ra một sự việc: do xung khắc, anh họ của Juliet là Tybalt đã giết chết người bạn rất thân của Romeo là Mercutio. Để trả thù cho bạn, Romeo đã đâm chết Tybalt. Mối thù giữa hai dòng họ càng trở nên sâu nặng. Vì tội giết người nên Romeo bị trục xuất khỏi Verona và bị đi đày biệt xứ. Tưởng như mối tình của Romeo và Juliet bị tan vỡ khi Romeo đi rồi, Juliet bị cha mẹ ép gả cho Bá tước Paris. Juliet cầu cứu sự giúp đỡ của tu sĩ Laurence. Tu sĩ cho nàng uống một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết, thuốc có tác dụng trong vòng 24 tiếng. Tu sĩ sẽ báo cho Romeo đến hầm mộ cứu nàng trốn khỏi thành Verona.

Đám cưới giữa Juliet và Paris trở thành đám tang. Xác Juliet được đưa xuống hầm mộ. Tu sĩ chưa kịp báo cho Romeo thì từ chỗ bị lưu đày nghe tin Juliet chết, Romeo đau đớn trốn về Verona. Trên đường về chàng kịp mua một liều thuốc cực độc dành cho mình. Tại nghĩa địa, gặp Paris đến viếng Juliet, Romeo đâm chết Paris rồi uống thuốc độc tự tử theo người mình yêu. Romeo vừa gục xuống thì thuốc của Juliet hết hiệu nghiệm. Nàng tỉnh dậy và nhìn thấy xác Romeo bên cạnh đã chết, Juliet rút dao tự vẫn.

Cái chết tang thương của đôi bạn trẻ đã thức tỉnh hai dòng họ. Bên xác hai người, hai dòng họ đã quên mối thù truyền kiếp và bắt tay nhau đoàn tụ, nhưng câu chuyện tình yêu ấy vẫn mãi sẽ là nỗi đau rất lớn trong lòng những người biết đến họ.

Vở kịch dựa trên xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt với hoàn cảnh thù địch vây hãm. Mối tình của họ khẳng định sức sống vươn dậy trên mọi hoàn cảnh của con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo thành kiến phong kiến, nguyên nhân thù hận của tình người, của chủ nghĩa nhân văn. Vở kịch cũng đạt tới tầm cao về nghệ thuật tổ chức kịch tính, qua việc dẫn dắt hành động kịch và cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật.

Văn bản trong sách giáo khoa trích lớp 2, hồi II của vở kịch.

B. BÀI TẬP VÀ HƯỚNG DẪN GIẢI

Câu 1: Trang 201 sgk ngữ văn 11 tập 1

Đoạn trích có mười sáu lời thoại. Sáu lời thoại đầu có gì khác biệt với những lời thoại sau? Hình thức của các lời thoại đó là gì?

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 3

I. Tác giả, tác phẩm

1. Tác giả: Các em tham khảo phần giới thiệu tác giả trong SGK Ngữ Văn 11 Tập 1.

2. Tác phẩm

* Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở kịch nổi tiếng đầu tiên của Sếch-xpia, được viết vào khoảng những năm 1594 – 1595, gồm 5 hồi bằng thơ xen lẫn văn xuôi, dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù giữa hai dòng họ Môn- ta-ghiu và Ca-piu-let, tại Vê-rô-na.

* Đoạn trích Tình yêu và thù hận thuộc lớp 2, Hồi II của vở kịch.

* Tóm tắt:

Tác phẩm kể về ở thành Vê-rô-na nước Ý có hai dòng họ phong kiến vốn có mối thù truyền kiếp với nhau là Mông-te-ghiu và Ca- piu-let. Chàng Rô-mê-ô là con trai họ Mông-ta-ghiu yêu Giu-li-ét là con gái họ Ca-piu-let. Họ là một đôi trai tài gái sắc.

Hai người làm lễ thành hôn thầm kín. Nhưng cùng trong ngày hôm đó, do một cuộc cãi lộn, Rô-mê-ô đâm chết Ti-bân, anh họ Giu-li-et và bị kết tội biệt xứ. Gia đình Giu-li–ét ép nàng phải lấy bá tước Pa-rix. Nàng định tự sát, nhưng được tu sĩ Lô-rân giúp kế tránh cuộc hôn nhân đó: tu sĩ cho nàng một liều thuốc ngủ, uống vào sẽ như người đã chết; sau khi gia đình đặt thi thể nàng vào hầm mộ, tu sĩ sẽ báo cho Rô-mê-ô đến cứu nàng trốn khỏi thành Vê-rô-na.

Nhưng người của tu sĩ chưa kịp báo tin thì người nhà Môn-ta-ghiu lại đến trước báo cho Rô-mê-ô tin nàng Giu-li-ét đã tự sát. Rô-mê-ô tưởng nàng đã chết, nên đã tự sát bên nàng. Giu-li-ét tỉnh dậy, cũng tự sát theo. Và trước cái chết của hai người, hai họ đã quên mối thù truyền kiếp.

II. Hướng dẫn soạn bài

Câu 1:

* Đoạn trích có 16 lời thoại. Sáu lời thoại đầu là những lời độc thoại, đó là những “tiếng lòng” của nhân vật nhưng lại có định hướng đối tượng, có tính đối thoại nên rất sinh động.

Ví dụ những lời độc thoại của Rô-mê-ô khi thì giống như đang nói với Giu-li-et “Vầng dương tươi đẹp ơi…”, “Hỡi nàng tiên lộng lẫy hãy nói nữa đi…”. Lúc thì lại như đối thoại với chính mình “Kìa! Nàng tì má lên bàn tay…”

* Đến 10 lời thoại còn lại: mang hình thức đối thoại, tức là các lời thoại ấy hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe, mang tính chất hỏi đáp, đó là những lời trực tiếp thể hiện tình cảm, ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng đầy chất thơ.

Câu 2:

Những cụm từ chứng minh tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch:

Câu 3:

Diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô qua hình thức so sánh liên tưởng trong lời thoại đầu tiên của nhân vật này:

Câu 4:

Lời thoại: “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…” cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp của Giu-li-ét:

* Qua lời độc thoại nội tâm:

Câu 5:

Chứng minh vấn đề “Tình yêu và thù hận” đã được giải quyết xong trong mười sáu lời thoại này:

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 4

Đọc – hiểu văn bản

Bài 1 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Đoạn trích có mười sáu lời thoại. Sáu lời thoại đầu có gì khác biệt với những lời thoại sau? Hình thức của những lời thoại đó là gì?

Trả lời:

– Từ lời thoại 1 đến lời thoại 7 là độc thoại của hai nhân vật. Tác giả để hai nhân vật tự nhiên bộc lộ tình cảm của mình, qua đó thể hiện mối tình say đắm của hai người.

– Từ lời thoại 8 đến lời thoại 16 là lời đối thoại giữa hai người. Những lời đối thoại ấy vẫn là lời trực tiếp thể hiện tình cảm. Ngôn ngữ đối thoại của nhân vật cũng đầy chất thơ. Rômêô đã dùng một loạt hình ảnh so sánh tuyệt vời nhất để miêu tả vẻ đẹp của nàng Giuliet. “Nguyên là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời có việc phải đi vắng đã tha thiết nhờ mắt nàng lấp lánh chờ đến lúc sao về”.

Vượt lên mọi ràng buộc, mọi quy định của gia đình quý tộc, nàng Giuliet dám nói lên một cách thành thực tình yêu chân thành say đắm của mình, “Chàng Môngtaghiu tuấn tú ơi, em yêu chàng say đắm; … ngờ em là kẻ trăng hoa”. Lời nói của Giuliet cũng là lời tuyên ngôn của những người trẻ tuổi.

Lời thề hẹn của họ đã chứng tỏ những thế lực và xiềng xích của những hủ tục, thành kiến của mối quan hệ phong kiến đã dần mất tác dụng. Nó đang bị phá bỏ hoặc tự tan rã. Thời đại trung cổ đã qua đi, con người đã được giải phóng khỏi những quy tắc hà khắc vô lí. Bút pháp lãng mạn và chất liệu hiện thực đã tạo nên một mối tình đẹp và Rô-mê-ô và Giu-li-et.

Bài 2 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Tìm những cụm từ chứng minh tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-et diễn ra trong bối cảnh hai dòng họ thù địch.

Trả lời:

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-et diễn ra trong hai hoàn cảnh dòng họ có mối thù hận truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-et và Rô-mê-ô. Cả hai đều nhận thức được cái tình cảnh oái oăm, cái hoàn cảnh thù địch mà họ bị đặt vào.

– Lời thoại của Rô-mê-ô: nàng tiên lộng lẫy, nàng tiên kiều diễm, nàng tiên yêu quý của tôi ơi, đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu; tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em,…

– Lời thoại của Giu-li-ét: …em sẽ không còn là con cháu nhà Ca-piu-lét nữa. Chàng ơi! Hãy mang tên họ nào khác đi… chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi. Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em như thế nào…

Bài 3 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Phân tích diễn biến tâm trạng của Rô-mê-ô qua hình thức so sánh liên tưởng trong lời thoại đầu tiên của nhân vật này.

Trả lời:

– Đây là lời thoại dài nhất và là lời thoại độc thoại nội tâm của nhân vật. Lời thoại được viết rất trau chuốt với nhiều hình ảnh đẹp, nhiều liên tưởng độc đáo, thú vị, những so sánh bất ngờ, táo bạo. Tất cả nhằm bộc lộ tâm trạng yêu đương nồng cháy, đam mê, ngỡ như không có gì cản được của Rô-mê-ô khi trèo tường đến bên dưới phòng ngủ của Giu-li-ét.

– Trong tâm trạng đó, Rô-mê-ô chỉ còn nhìn thấy một điều đó là Giu-li-ét đẹp như một nàng tiên lộng lẫy át cả vẻ đẹp của trăng sao trên bầu trời; chỉ còn biết làm một việc duy nhất là tìm những lời đẹp đẽ nhất, những hình ảnh rực rỡ nhất để ca ngợi nhan sắc tuyệt mĩ của nàng.

– Đây là tâm trạng của chàng trai mà tình yêu đầy ắp trong tim, đã trào ra và tuôn chảy ào ạt như một khúc nhạc ái tình nồng nàn, ngây ngất, đắm say.

Bài 4 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Phân tích diễn biến tâm trạng của Giu-li-et để làm rõ tác giả đã miêu tả tuyệt vời tâm trạng người thiếu nữ đang yêu.

Trả lời:

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-et nảy sinh trong một hoàn cảnh rất éo le, đó là mối hận thù truyền kiếp của hai dòng họ. Vì thế tâm trạng của Giu-li-et sau buổi găp gỡ diễn biến rất phức tạp. Nó diễn biến qua các chặng sau:

+ Thổ lộ tình yêu mãnh liệt với Rô-mê-ô và những lo lắng tình yêu của mình sẽ gặp trở ngại.

+ Vô tình thổ lộ tình yêu của mình vì không biết Rô-mê-ô đang đứng trong vườn. Nàng lo lắng cho người yêu.

+ Nàng tin tưởng vào tình yêu của Rô-mê-ô và luôn lo lắng cho sự an nguy của chàng.

Giu-li-et cũng yêu Rô-mê-ô tha thiết, nhưng với trái tim phụ nữ nhạy cảm nàng lo lắng cho mối tình đầy ngang trái của mình. Song tâm trạng của Giu-li-et cho thấy nàng là một cô gái có trái tim biết yêu say đắm, nàng sẵn sàng vượt qua mọi khó khăn để giành lấy tình yêu cho mình.

Bài 5 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Chứng minh rằng vấn đề “Tình yêu và thù hận” đã được giải quyết xong trong mười sáu lời thoại này.

Trả lời:

Vấn đề thù hận dòng họ: thái độ của Rô-mê-ô rất kiên quyết. Ba trên năm lời đối thoại của Rô-mê-ô thể hiện thái độ dứt khoát của chàng trong việc giải quyết dứt điểm vấn đề thù hận: Tôi sẽ thay đổi tên họ; sẽ xé nát cái tên đó vì nó là kẻ thù của em; chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó.

Tình yêu có sức mạnh to lớn, có thể vượt qua được hận thù thể hiện trong lời thoại thứ 13 và 15 trong đoạn trích. Các câu như cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng thù hận của dòng họ nữa đâu thể hiện ý chí vượt qua tất cả để đến với tình yêu của Rô-mê-ô.

Như vậy, có thể nói vấn đề tình yêu và thù hận đã được giải quyết dứt khoát qua 16 lời thoại, và trên tinh thần các lời thoại đó của hai nhân vật Rô-mê-ô và Giu-li-ét thì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Đó là bản chất, sức mạnh, vẻ đẹp của tình yêu con người mà Uy-li-am Sếch-xpia đã ca ngợi trong đoạn trích cũng như trong toàn bộ vở kịch.

Luyện tập

Bài 1 luyện tập trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Qua đoạn trích “Tình yêu và thù hận”, chứng minh rằng: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người”.

Trả lời:

– Giải thích câu nói:

Nhận xét: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người” cần được hiểu một cách thấu đáo. Có thể nói, trước hết, tình yêu có sức mạnh nối kết con người lại với nhau, xoá đi mọi thành kiến lạc hậu hay hận thù chia rẽ con người. Tình yêu sau nữa còn nâng đỡ, cổ vũ cho con người, tạo nên lẽ sống: “Sống là yêu thương”. Tình yêu, do đó, thực hiện chức năng bảo vệ và gìn giữ cho cuộc sống, giúp cuộc sống phát triển. Song đó phải là tình yêu chân chính.

Tình yêu là vấn đề muôn thuở của văn học, của con người trong mọi thời đại, trong mọi nền văn học. Nói đến con người là nói đến khát vọng tình yêu bởi vì tình yêu là tình cảm thiên liêng, thể hiện con người và tâm hồn con người một cách sinh động và chính xác nhất. Cho nên, ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng là khẳng định con người. Đây là một ý kiến đúng đắn.

– Phân tích và chứng minh câu nói trên qua đoạn trích Tình yêu và thù hận. Phân tích tình yêu say đắm của hai nhân vật qua diễn biến câu chuyện và qua các lời thoại.

+ Tình yêu của hai người dành cho nhau rất nồng thắm: qua những lời hội thoại của hai người, qua diễn biến tâm lí của cả hai.

+ Tình yêu đó của họ đã vượt lên trên những hận thù gia tộc để quyết tâm đến với nhau.

Bài 2 trang 201 SGK Ngữ văn 11 tập 1

Nhập vai Rô-mê-ô và Giu-li-ét, trình bày lại cảnh gặp gỡ qua hình thức một màn kịch ngắn.

Tham khảo lại phần kịch bản ở phần hướng dẫn soạn bài Tình yêu và thù hận ngắn nhất phía trên.

Tổng kết

Rô-mê-ô vù Giu-li-ét là một trong số những vở kịch nổi tiếng nhất của Sếch- xpia. Dựa vào câu chuyện về món nợ máu truyền kiếp của haị dòng họ Môn-ta-ghiu yà Ca-piu-lét xảy ra thời trung cổ, tại thành phố Vê-rô-na (I-ta-li-a), Sếch-xpia đã xây dựng thành một bi kịch tình yêu và cho ra mắt công chúng lần đầu tiên vào năm 1595.Thông qua câu chuyện tình yêu vượt lên trên thù hận của Rô-mê-ô và Giu-li-ét, tác giả ca ngợi và khẳng định vẻ đẹp của tình người, tình đời theo lí tưởng của chủ nghĩa nhân văn.

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 5

GỢI Ý HỌC BÀI

Câu 1. Đoạn trích giảng có mười sáu (16) lời thoại. Rô-mê-ô và Giu-li-ét không đôi thoại với nhau ngay từ đầu. Từ đầu đến lời thoại thứ sáu (6) hai nhân vật này nói về nhau, nhắc đến tên nhau nhưng chưa phải là nói với nhau. Đọc kĩ lại: “Ảy, khe khẽ chứ” là một chi tiết ngôn ngữ cho thây điều vừa nói. Lại nữa “Ôi, giá nàng biết nhỉ!”, “Kia nàng tì má lên bàn tay” (nàng: đại từ nhân xưng ngôi thứ ba số ít). Các tính từ sở hữu ngôi thứ ba sô’ ít của nàng ở lời thoại 1; lời chỉ dẫn in nghiêng nói riêng ở lời thoại thứ 5, và lời lẽ của Giu-li-ét ở các lời thoại thứ 4 và thứ 6. Đó cũng là bằng chứng cho thấy sáu lời thoại đầu không phải là đốì thoại. Như thế cảnh Tỉnh yêu và thù hận ở đây là diễn biến qua hai giai đoạn:

– Sáu lời thoại đầu chính là những lời độc thoại nội tâm nhưng được lên thành tiếng thành lời, dù nói khe khẽ, nói một mình, mình nói chỉ để mình nghe (và cả khán giả nghe nữa chứ!)

– Mười lời thoại còn lại hoặc từ lời thứ bảy (7) đến hết ngôn từ của hai nhân vật chuyển sang tình thế đối thoại.

Câu 2. Những cụm từ chứng minh tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong bốì cảnh hai dòng họ thù địch là:

– Sao chàng lại là Rô-mê-ô nhỉ?

– Em sẽ không còn là con’ cháu nhà Ca-piu-lét nữa.

– Chỉ có tên họ của chàng là thù địch của em thôi.

Câu 3. Sau cuộc gặp gỡ, tình yêu bùng cháy mãnh liệt trong lòng nên Rô-mê-ô ngay giữa đêm khuya hôm đó đã trở lại nhà Ca-piu-lét. Phút này, Rô-mê-ô nhìn rõ Giu-li-ét ở cửa sổ trên cao. Qua lời thoại đầu tiên, tâm trạng Rô-mê-ô là một tâm trạng say đắm.

Tuy đây là lời độc thoại: Rô-mê-ô nói một mình cốt chỉ để mình nghe thôi nhưng tưởng như trong lời độc thoại kia có cả đối thoại nữa. Câu nói của Rô-mê-ô: ‘“Vầng dương đẹp tươi ơi hãy hiện lên đi…” nghe cứ như chàng đang nói với Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Nhưng có lúc thì Rô-mê-ô đang nói với chính mình: “Ôi, giá nàng biết nhỉ! Nàng đang nói kia”.

Khi thấy Giu-li-ét xuất hiện trên cửa sổ, Rô-mê-ô đã say đắm trước nhan sắc tuyệt vời của nàng. Đang lúc đêm khuya trăng sáng, chàng so sánh ngay người đẹp với chị Hằng. Nhưng chưa được, trong mắt Rô-mê-ô, Giu-li-ét phải là mặt trời mọc lúc rạng đông khiến cho mặt trăng thành héo hon, nhợt nhạt. Chàng nói: “Vầng dương dẹp tươi ơi, hãy mọc lên đi”. Phút này, Giu-li-ét đã xuất hiện trên cửa sổ. Như vầng dương từ từ mọc lên, nàng hiện ra càng lúc càng rực rỡ hơn.

Từ hình ảnh bao quát đó của Giu-li-ét, tác giả thể hiện thật khéo léo dòng suy nghĩ của Rô-mê-ô, nhất là khi chàng nhìn vào đôi mắt đẹp của nàng: “Nàng đang nói kia, nhưng nàng có nói gì dâu… đôi mắt nàng lên tiếng”. Ôi! Đôi mắt lấp lánh biết nói như thể đôi môi mấp máy. Tiếp đó Rô-mê-ô còn so sánh đôi mắt Giu-li-ét như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Ý nghĩ đó thi vị biết bao nhiêu: “Chẳng qua là hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời… chờ đến lúc sao về”.

Tâm hồn say đắm của Rô-mê-ô không dừng lại ở đôi mắt đẹp như hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời. Chàng đặt ra mấy giả định: “Sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia ư?… đôi mắt nàng lên thay cho sao ư?”… Cũng từ giả định đầu, dòng suy nghĩ của Rô-mê-ô chuyển sang ngợi ca đôi gò má rực rỡ của Giu-li-ét từ lúc nào chẳng biết như liền mạch dẫn đến ý cuối cùng của lời thoại: “Kìa, nàng tì má lên bàn tay! Ôi, ước gì ta là chiếc bao tay, để dược mơn trớn gò má ấy”.

Như thế, lời thoại đầu tiên của đoạn trích Tình yêu và thù hận đã thể hiện tâm hồn choáng ngợp đắm say của Rô-mê-ô trước nhan sắc người đẹp Giu-li-ét trong một không gian thơ mộng. Dòng suy nghĩ cảm xúc của chàng diễn ra theo một trật tự hợp lí và mối liên tưởng so sánh của chàng cũng phù hợp với khung cảnh đêm thề hẹn bấy giờ.

Câu 4. Lời thoại: Chỉ có tên họ chàng là thù địch với em thôi… Cho thấy diễn biến nội tâm phức tạp của Giu-li-ét. Tâm trạng đó được diễn tả như sau:

– Gặp Rô-mê-ô tại buổi dạ hội, khi dạ hội kết thúc trở về phòng, đứng bên cửa sổ, giữa đêm khuya thanh vắng, trăng sáng và đẹp, Giu-li-ét tưởng vắng người nên đã thót lên tiếng lòng của riêng mình. Ngờ đâu, Rô-mê-ô nghe được.

Xưa nay thông thường người thiếu nữ không chủ động bày tỏ tình cảm với người mình yêu. Nhưng ở đây vì vô tình mà Giu-li-ét đã làm chuyện ấy. Khi biết có người đã nghe được tiếng lòng của riêng mình, đầu tiên nàng nghĩ là người lạ:

Người là ai, mà khuất trong đêm tối, biết được điều tôi áp ủ trong lòng”. Rồi Giu-li-ét cũng rõ đó chính là Rô-mê-ô:

Tai tôi nghe chưa trọn một trăm tiếng thốt từ miệng đó ra mà tôi đã nhận ra tiếng ai rồi. Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư?”

Cũng chẳng ngẫu nhiên chút nào khi ở đây Giu-li-ét nhắc tới dòng họ Môn-ta-ghiu của Rô-mê-ô. Đúng là môi hận thù giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét vẫn luôn ám ảnh nàng.

Các lời đáp của Rô-mê-ô:

– “Tôi không biết xưng danh cùng em thế nào. Nàng tiên yêu quý của tôi ơi, tôi thù ghét cái tên tôi, vì nó là kẻ thù của em. Nếu chính tay tôi đã viết tên đó, thì tôi xé nát nó ra”.

– “Hỡi nàng tiên kiều diễm, chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu, nếu em không ưa tên họ đó”.

Dường như chưa đủ bảo đảm tình yêu của Rô-mê-ô đối với Giu-li-ét nên nàng mới hỏi một câu đúng là không cần có:

“… anh ơi, và tới làm gì thế?…”

Để tiếp tục thuyết phục người yêu Rô-mê-ô đáp:

– “Tôi vượt qua được tường này là nhà đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu; mẩy bức tường đá ngăn sao được tình yêu; mà cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm; vậy người nhà em ngăn sao nổi tôi”.

Lần đầu tiên Rô-mê-ô nói đến “tình yêu”, chỉ một lời thoại mà đến những bốn lần lặp lại từ này đã đủ làm cho cô gái tin rằng chàng trai đã yêu mình. Là tình yêu mà chàng đã vượt mấy bức tường đá vào đây nhưng liệu chàng có vượt qua được mô’i hận thù giữa hai dòng họ hay không?

Rô-mê-ô đáp:

– “Em ơi! Ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi han hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yểm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu”.

Chính lời đáp mãnh liệt này đã giải tỏa nỗi băn khoăn của Giu-li-ét và nàng đã tế nhị chấp nhận tình yêu của Rô-mê-ô bằng lời nói:

– “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”.

Câu nói này khác hẳn lời lẽ quá bạo dạn ở lúc đầu khi Giu-li-ét tưởng là không có ai nghe thấy?

Diễn biến nội tâm phức tạp của cô gái này đã được tài nghệ của sếch-xpia miêu tả một cách tuyệt vời.

Câu 5. Rô-mê-ô gặp Giu-li-ét tại đêm dạ hội hóa trang và đã yêu nàng chẳng chút băn khoăn đắn đo. Trong tâm hồn chàng không có sự giằng co nào cả. Trước sau gì Rô-mê-ô đã trả lời với Giu-li-ét là vì yêu nàng chàng sẵn sàng từ bỏ tên họ của chàng chẳng chút do dự.

Cả Giu-li-ét cũng thế. Tuy có nhiều băn khoăn nhung là băn khoăn liệu Rô-mê-ô có vượt qua được môi hận thù giữa hai dòng họ không. Đó là băn khoăn về phía Rô-mê-ô chứ không hề băn khoăn về phía mình. Đúng là trong tâm hồn Giu-li-ét không hề có chút đắn đo suy tính nào, không có câu hỏi nên hay không nên yêu Rô-mê-ô trong hoàn cảnh giữa hai dòng họ có mối hận thù.

Có thể nói qua mười sáu (16) lời thoại vấn đề tình yêu và thù hận đã được giải quyết xong.

Bài soạn “Tình yêu và thù hận” số 6

I- KIẾN THỨC CƠ BẢN CẦN NẮM VỮNG

1. Uy-li-am Sếch-xpia (1564 – 1616) là nhà thơ, nhà viết kịch thiên tài người Anh. Sếch-xpia là con người khổng lồ của một thời đại khổng lồ – thời đại Phục hưng.

Sếch-xpia sinh tại thị trấn Xtơ-rét-phớt ôn Ê-vơn thuộc miền tây nam nước Anh trong một gia đình buôn bán ngũ cốc, len, dạ. Năm 1578, khi mới tròn 14 tuổi, do gia đình buôn bán sa sút, sếch-xpia phải thôi học. Từ năm 1585, ông lên thủ đô Luân Đôn kiếm sống và tham gia giúp việc cho đoàn kịch của Hầu tước Xtơ-ren-giơ, về sau trở thành Nhà hát Địa cầu. Đây cũng là nơi ông gia nhập đại gia đình nghệ thuật. Thời gian này, nước Anh đang phát triển phồn thịnh, là mảnh đất thuận lợi cho lí tưởng nhân văn có dịp được thể hiện.

2. Sếch-xpia viết 37 vở kịch gồm kịch lịch sử, bi kịch và hài kịch mà phần lớn trong số đó đã trở thành những kiệt tác của văn học nhân loại. Tác phẩm của ông là tiếng nói của lương tri tiến bộ, của khát vọng tự do, của lòng nhân ái bao la và của niềm tin bất diệt vào khả năng hướng thiện, khả năng vươn dậy để khẳng định cuộc sống của con người.

3. Rô-mê-ô và Giu-li-ét là vở kịch nổi tiếng đầu tiên của Sếch-xpia. Tác phẩm được viết vào khoảng từ năm 1594 đến năm 1595. vở kịch gồm năm hồi bằng thơ xen lẫn văn xuôi, dựa trên câu chuyện có thật về mối hận thù giữa hai dòng họ Môn-ta-ghiu và Ca-piu-lét, tại Vê-rô-na (I-ta-li-a) thời trung cổ.

Vở kịch dựa trên xung đột giữa khát vọng yêu đương mãnh liệt với hoàn cảnh thù địch vây hãm. Mối tình của Rô-mê-ô và Giu-li-ét khẳng định sức sống, sức vươn lên, vượt qua mọi hoàn cảnh trói buộc con người. Mối tình đó cũng là lời kết án đanh thép, tố cáo thành kiến phong kiến, nguyên nhân hận thù của tình người, của chủ nghĩa nhân văn. Tác phẩm cũng đạt tới tầm cao về nghệ thuật tổ chức kịch tính, qua việc dẫn dắt hành động kịch và cá thể hoá ngôn ngữ nhân vật.

II- HƯỚNG DẪN ĐỌC – HlỂU VĂN BẢN

Câu 1: Câu Đoạn trích có mười sáu lời thoại (những chữ in nghiêng là phần chỉ dẫn sân khấu), trong đó sáu lời thoại đầu khác hẳn với các lời thoại còn lại. Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, trong sáu lời thoại đầu, hai nhân vật không đối thoại với nhau, cho dù trong lời thoại họ đều có nhắc đến tên nhau. Xét về mặt hình thức, sáu lời thoại đầu là những độc thoại. Các nhân vật nói về nhau chứ không nói với nhau (độc thoại là nói một mình, nói với mình). Vì các độc thoại này là “tiếng lòng” của nhân vật, nên xét về bản chất nó là các độc thoại nội tâm. Trong kịch, dù là lời độc thoại nội tâm thì nhân vật cũng phải nói to (để khán giả nghe được) và giả định như nhân vật kia không nghe thấy.

Có thể nói, vì là lời độc thoại nội tâm nên sáu lời thoại đầu chứa đựng cảm xúc yêu thương chân thành, đằm thắm. Ngôn từ mượt mà cùng cách nói ví von, so sánh rất phù hợp với tâm trạng phấn chấn, rạo rực chen lẫn những bồn chồn, mong nhớ của người đang yêu. Lời độc thoại có định hướng đối tượng, có tính đối thoại nên nó rất sinh động. Ví như trong những lời của Rô-mê-ô chẳng hạn, lúc thì như chàng đang nói với Giu-li-ét khi nàng xuất hiện, bên cửa sổ (“Vầng dương đẹp tươi ơi…”; “Hỡi nàng tiên lộng lẫy, hãy nói nữa đi…”), lúc thì lại như đang đối thoại với chính mình (“Kìa! Nàng tì má lên bàn tay! Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn gò má ấy!”; “Mình cứ nghe thêm nữa, hay mình nên lên tiếng nhỉ?”).

Mười lời thoại còn lại mang hình thức đối thoại, tức là các lời thoại ấy hướng vào nhau, các nhân vật nói cho nhau nghe. Tính chất hỏi – đáp, đối đáp xuất hiện.

Câu 2. Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét năm lần (“Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi…”, “chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi”; “nơi tử địa”; “họ mà bắt gặp anh…”; “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh ở nơi đây”… ) và trong lời thoại của Rô-mê-ô ba lần (“Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa”; “tôi thù ghét cái tên tôi…”; “chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu…”)-

Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ xuất hiện ở Giu-li-ét nhiều hơn. Điều đó cho thấy nỗi lo kèm theo sự ái ngại về hoàn cảnh của Giu-li-ét. Song Giu-li-ét không chỉ lo cho mình mà còn lo cho cả người mình yêu. Thái độ của Rô-mê-ô đối với hận thù giữa hai dòng họ quyết liệt hơn. Chàng sẩn sàng từ bỏ dòng họ của mình, thể hiện sự dũng cảm để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là sợ không có được, không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét, sợ nàng nhìn mình bằng ánh mắt của sự hận thù (“ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu”). Cả hai đều ý thức được sự thù hận đó, song nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Sự thù hận của hai dòng họ tuy là cái nền nhưng tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét không xung đột với hận thù ấy. Đây là sự khẳng định quyết tâm xây đắp tình yêu của hai người.

Câu 3. Đoạn trích mở đầu trong bối cảnh đêm khuya – trăng sáng. Ở đó “mảnh trăng thiêng liêng kia đương dát bạc trên những ngọn cây trĩu quả”. Màn đêm thanh vắng với những mảnh bạc đang lướt trên trời cao tạo ra chiều sâu cho sự bộc lộ tình cảm của đôi tình nhân. Thiên nhiên được nhìn qua các điểm nhìn của nhân vật. Thiên nhiên là thiên nhiên hoà cảm, đồng tình, trân trọng, chở che. Ánh trăng không thật sáng, không phải sáng ngời hay sáng loá để soi rọi mọi cái mà là ánh trăng mờ ảo. Trăng đóng vai trò trang trí cho cảnh gặp gỡ tình tứ song rất mực đoan chính của đôi tình nhân.

Trong khung cảnh đêm khuya, trăng trở thành đối tượng để Rô-mê-ô so sánh với vẻ đẹp không thể bì được của Giu-li-ét. Trong mắt Rô-mê-ô, nàng như “vầng dương” lúc bình minh; sự xuất hiện của “vầng dương” khiến “ả Hằng Nga” trở nên “héo hon”, “nhợt nhạt”. Theo mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô, phù hợp với tâm lí của người đang khát khao yêu đương thì các sự so sánh có chút cường điệu kia là hoàn toàn hợp lí.

,

Tiếp đến, mạch suy nghĩ của Rô-mê-ô hướng vào đôi mắt của tình nhân: “Đôi mắt nàng lên tiếng”. Đôi mắt lấp lánh của Giu-li-ét cảm nhận được sự mấp máy của làn môi khi nói. Nếu vẻ đẹp của Giu-li-ét được so sánh với “vầng dương” thì đôi mắt của nàng lại được so sánh với các ngôi sao và đó là “hai ngôi sao đẹp nhất bầu trời”. Sự so sánh được đẩy lên cấp độ cao hơn bằng một sự tự vấn: “Nếu mắt nàng lên thay cho sao và sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia thì thế nào nhỉ ?”. Lời tự vấn đầy ý nghĩa. “Đôi mắt lên thay sao” là một sự khẳng định đầy lãng mạn vẻ đẹp của đôi mắt, bởi lúc đó “cặp mắt nàng trên bầu trời sẽ rọi khắp khoảng không một làn ánh sáng tung bừng…”, Còn nếu “sao xuống nằm dưới đôi lông mày kia” thì lúc đó: “Vẻ đẹp của đôi gò má nàng sẽ làm cho các vì tinh tú phải hổ ngươi”. Các nét đẹp trên khuôn mặt Giu-li-ét lần lượt hiện lên: đẹp của đôi mắt, đẹp của đôi gò má. Điều đó dấy lên một khao khát yêu đương hết sức mãnh liệt: “Kìa, nàng tì má lên bàn tay ! Ôi ! Ước gì ta là chiếc bao tay, để được mơn trớn đôi gò má ấy !”.

Những cảm xúc được thể hiện qua những hình ảnh so sánh đầy lãng mạn của Rô-mê-ô biểu hiện rất thật cảm xúc của một con người đang yêu và đang được tình yêu đáp lại. Đây cũng là một sự cộng hưởng tình cảm kì lạ của những tâm hồn đang yêu mà Sếch-xpia đã quan sát và nhận biết một cách tài tình. Đồng thời ông cũng miêu tả hết sức thành công, đạt đến mức điển hình qua tâm trạng ấy. Hiển nhiên tình yêu này là một tình yêu chân thành, không vụ lợi và cũng lại rất hồn nhiên trong trắng nữa. vẻ đẹp của sự trong trắng là một phẩm chất của mối tình Rô-mê-ô và Giu-li-ét. Cái đẹp của bối cảnh làm nền cho sự phát triển của tình yêu trong trắng, cái đẹp của bối cảnh không cho phép những người trong cuộc nghĩ xấu về nhau cũng như không tạo điều kiện để những suy nghĩ xấu len vào phá đi cái tình cảm hồn nhiên đó.

Bối cảnh là đẹp, là “đêm thần tiên”, là “đêm tốt lành”, là “đêm thanh” được tạo ra từ thủ pháp so sánh. Sự so sánh ở đây cũng hết sức linh hoạt: so sánh người – cảnh, so sánh người – thần tiên… được lồng trong thứ ngôn ngữ của sự đắm say, của sự nồng nhiệt. Tất cả nhằm thổi bùng lên ngọn lửa của tình yêu, để từ đó dẫn dắt hai người đi tới sự chủ động, tạo hướng đi cho mối tình kết quả đơm hoa, tạo cho họ sự tự chủ hoàn toàn trong tình yêu chân chính.

Câu 4. Cảnh trong đoạn trích này xảy ra sau khi Rô-mê-ô và Giu-li-ét gặp gỡ nhau trong lễ hội hoá trang trước đó không lâu (cuộc gặp gỡ đã làm nảy sinh tình yêu của họ). Trong cuộc gặp gỡ ở lễ hội hoá trang, chính Rô-mê-ô đã thốt lên: “Nàng là họ Ca-piu-lét sao? Ôi oan trái yêu quý, đời sống của ta nay nằm trong tay người thù” và Giu-li-ét cũng đã nhận thức được điều đó: “Một mối thù sinh một mối tình

-Vội chi sớm gặp, biết đành muộn sao ! – Tình đâu trắc trở gian lao – Hận thù mà lại khát khao ân tình”. Cả hai đều đã nhận thức được cái tình cảnh oái oăm, cái hoàn cảnh thù địch mà họ bị đặt vào.

Sự nhận thức đó dẫn đến lời độc thoại của Giu-li-ét như là một sự băn khoăn day dứt, một sự dằn vặt thể hiện tâm trạng rối bời trước hoàn cảnh éo le: “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…”. Các lời thoại của Giu-li-ét mặc dù vậy vẫn thể hiện một tình cảm mãnh liệt. Có lời thoại rất đơn giản, lời thoại thứ 2 chỉ có một thán từ Ôi chao, song nó cho thấy cảm xúc bị dồn nén không thể không thổ lộ ra thành lời, đồng thời cũng hàm chứa một tiếng thở dài mang dáng vẻ lo âu, bởi hận thù giữa hai dòng họ và bởi không biết Rô-mê-ô có yêu mình thành thực hay không. Trong khi đó, tâm trạng của Rô-mê-ô đơn giản hơn nhiều. Chàng đã yêu, đã được đáp lại tình yêu và đi tới dứt khoát khẳng định tình yêu, sẵn sàng từ bỏ dòng họ, từ bỏ tên họ mình.

Các lời thoại 4 và 6 của Giu-li-ét cũng là sự thổ lộ tình yêu trực tiếp, không ngại ngùng. Việc thổ lộ tình yêu trực tiếp qua các lời thoại này không phải để nói với Rô-mê-ô, bởi người con gái thường không chủ động thổ lộ tình yêu với người mình yêu, mà là để nói với chính mình. Hơn nữa, Giu-li-ét cũng không hề biết người yêu đang đứng nấp gần đấy. Các lời thoại này çho thấy sự chín chắn của Giu-li-ét. Qua sự tự phân tích, nàng đi đến khẳng định: “Chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi…”. Cách đặt vấn đề của Giu-li-ét rất hồn nhiên, tha thiết và trong trắng. Nàng vừa tự chất vấn mình, rồi lại tự tìm cách trả lời: “Cái tên nó có nghĩa gì đâu?” rồi nàng tự đề xuất các giải pháp: “Chàng hãy vứt bỏ tên họ của chàng đi”. Hoặc đề xuất một cách làm rất táo bạo, thể hiện một tình yêu cháy bỏng: “chàng hãy đem tên họ ấy, nó đâu phải xương thịt của chàng, đổi lấy cả em đây !”. Câu trả lời là một giải pháp khẳng định, không có cách lựa chọn nào khác, không còn cách giải quyết nào khác.

Lời thoại thú 8, lời của Giu-li-ét, cho thấy sự bất ngờ của nàng khi biết có người đang nhìn mình, đang nghe mình thổ lộ. Sự bất ngờ của Giu-li-ét không tạo ra cảm giác sợ hãi, bởi vì, xét về mặt tâm lí, lúc đó Giu-li-ét cũng đang rất cần một sự chia sẻ. Và khi biết được người đang ẩn nấp lại là Rô-mê-ô thì tâm trạng nàng trở nên phấn chấn: “Tai tôi nghe chưa trọn một trăm tiếng thốt từ miệng đó mà tôi đã nhận ra tiếng ai rồi”. Song nỗi sợ về mối thù giữa hai dòng họ lại loé lên trong suy nghĩ của Giu-li-ét: “Chẳng phải anh Rô-mê-ô, và là họ nhà Môn-ta-ghiu đấy ư?”. Vế đầu của câu hỏi này vừa là để hỏi vừa trả lời khẳng định luôn, song vế hai được đưa ra, có vẻ không cần thiết, nhưng nó lại cho thấy nỗi lo lắng ám ảnh không dứt của Giu-li-ét. Dù Rô-mê-ô khẳng định và quyết tâm nhưng Giu-li-ét vẫn ái ngại: “Anh làm thế nào tới được chốn này, anh ơi, và tới làm gì thế?”. Câu hỏi nghe có vẻ như thừa song nó lại chính là điều mà Giu-li-ét cần biết. Nàng cần biết Rô-mê-ô có thực sự yêu mình không? Động cơ thúc đẩy chàng đến đây có phải vì tình yêu chân thành thực sự hay không hay chỉ là sự bồng bột thoáng qua?

Khi không nghĩ về dòng họ Môn-ta-ghiu nữa thì Giu-li-ét lại nghĩ đến dòng họ Ca-piu-lét của mình và khẳng định vị trí nơi hai người đang nói chuyện là “nơi tử địa” mà “nếu anh bị họ hàng nhà em bắt gặp nơi đây”, “họ mà bắt gặp anh, họ sẽ giết anh”. Vậy là Giu-li-ét đã nhận thức được rất rõ bức tường đang ngăn cách tình yêu của họ – bức tường đá của vườn nhà và bức tường thù hận của hai dòng họ. Nàng sợ Rô-mê-ô không dám vượt qua và không thật lòng yêu nàng nữa.

Nhưng rồi, các bức tường cũng dần được dỡ bỏ. Trước hết, điều mà Giu-li-ét cảm thấy là tình yêu chân thành của Rô-mê-ô đã được gỡ bỏ ở lời thoại thứ 13 của Rô-mê-ô mà ở đó cụm từ “tình yêu” được nhấn mạnh bốn lần với sự khẳng định dứt khoát: “Cái gì tình yêu có thể làm là tình yêu dám làm”. Bức tường thù hận được dỡ bỏ bằng chính quyết tâm của hai người, nhất là quyết tâm của Giu-li-ét: “Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh nơi đây”. Còn bức tường đá của vườn nhà thì đã có “đôi cánh nhẹ nhàng của tình yêu” giúp đỡ.

Diễn biến nội tâm của Giu-li-ét phong phú và phức tạp hơn Rô-mê-ô rất nhiều nhưng nó cũng phù hợp với tâm lí của người đang yêu. Đồng thời nó cũng cho thấy sự chín chắn trong tình yêu của Giu-li-ét. Sự day dứt trong tâm trạng đó cho thấy sức ép nặng nề của hoàn cảnh, thấy được sự vây hãm của mối hận thù truyền kiếp giữa hai dòng họ, thấy được mối nguy hiểm đang đe doạ hai người.

Câu 5. Trong toàn vở Rô-mê-ô và Giu-li-ét, xung đột cơ bản là xung đột giữa tình yêu và thù hận. Tuy nhiên trong đoạn trích này, thù hận không xuất hiện như là một thế lực cản trở tình yêu. Thù hận chỉ hiện ra qua suy nghĩ của các nhân vật, song không phải là động lực chi phối, điều khiển, quyết đinh hành động của nhân vật.

Đối với Rô-mê-ô, chàng đã gặp Giu-li-ét, đã có được tình yêu của nàng và đã sẵn sàng làm tất cả vì tình yêu ấy.

Đối với Giu-li-ét, sự xuất hiện cảm thức về những bức tường cản trở tình yêu là có thực. Điều này phản ánh sự chín chắn trong suy tư của nàng, song đây không phải là sự tính toán thiệt hơn. Điều mà Giu-li-ét cần là tình yêu chân thật của Rô-mê-ô và tình yêu kia đối với nàng là tất cả. Thế nên, khi biết và khẳng định chắc chắn Rô-mê-ô đến với mình bằng tình yêu chân thành thì mọi nghi ngại không còn, các băn khoăn cũng chấm dứt.

Như vậy, trong đoạn trích gồm mười sáu lời thoại này, tình yêu không xung đột với thù hận mà chỉ diễn ra trên nền thù hận. Thù hận bị đẩy lùi, bị xoá đi vĩnh viễn, chỉ còn lại tình người và tình đời bao la, phù hợp với lí tưởng nhân văn. Chính vì lẽ đó, tác phẩm Rô-mê-ô và Giu-li-ét đã trở thành bài ca ca ngợi và khẳng định tình yêu cao đẹp. Vấn đề tình yêu và thù hậii về cơ bản đã được giải quyết.

III- HƯỚNG DẪN LUYỆN TẬP

Nhận xét: “Ca ngợi tình yêu chân chính của con người cũng chính là khẳng định con người” cần được hiểu một cách thấu đáo. Có thể nói, trước hết, tình yêu có sức mạnh nối kết con người lại với nhau, xoá đi mọi thành kiến lạc hậu hay hận thù chia rẽ con người. Tình yêu làm cho tình người được nối lại. Tình yêu sau nữa còn nâng đỡ, cổ vũ cho con người, tạo nên lẽ sống: “Sống là yêu thương”. Tình yêu, do đó, thực hiện chức năng bảo vệ và gìn giữ cho cuộc sống, giúp cuộc sống phát triển. Song đó phải là tình yêu chân chính.

Đăng bởi: Bích Hương Trần

Từ khoá: 6 Bài soạn “Tình yêu và thù hận” của Uy-li-am Sếch-xpia lớp 11 hay nhất

6 Bài Soạn “Thơ Duyên” Trong Sgk Chân Trời Sáng Tạo

Nội dung chính

Bài soạn tham khảo số 1

Bố cục văn bản Thơ duyên – Ngữ văn lớp 10 Chân trời sáng tạo

Đoạn 1: khổ 1,2: Khung cảnh một buổi chiều thu

Đoạn 2: khổ 3: Sự hòa hợp trong tâm hồn nhà thơ

Đoạn 3: khổ 4,5: Vạn vật trong thơ duyên trở nên có linh tính.

Tóm tắt Thơ duyên: Bài thơ nói về tình yêu nhưng ở đây là tình yêu với cuộc sống, con người, thiên nhiên vẻ đẹp và sự hòa hợp với đời chính điều đó làm nên cái hay trong bài Thơ Duyên của Xuân Diệu.

Nội dung chính Thơ duyên

Bài thơ là sự xúc động trước cuộc giao duyên huyền diệu của cả thế gian này. Sự hoà quyện của ba mối tơ duyên chính thiên nhiên với thiên nhiên, con người với thiên nhiên và con người với con người.

Tác giả – tác phẩm: Thơ duyên

I. Tác giả văn bản Thơ duyên

Xuân Diệu (1916 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu.

Quê quán: Quê nội ở Hà Tĩnh, Quê ngoại ở Bình Định.

Làm thơ khi còn rất sớm, nổi tiếng với phong trào Thơ Mới.

Phong cách nghệ thuật: dồi dào những rung động tươi mới, tràn trề tình yêu, niềm khát khao giao cảm với đời.

Tác phẩm chính: Thơ thơ, Gửi hương cho gió,…

II. Tìm hiểu tác phẩm Thơ duyên

Thể loại: Thơ mới 7 chữ

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: In trong Tuyển tập thơ Xuân Diệu

Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

Bố cục:

Đoạn 1: 6 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên

Đoạn 2: 6 câu thơ tiếp: Vương quốc của tình yêu

Đoạn 3: 4 câu thơ tiếp: Cảnh thiên nhiên li tán

Đoạn 4: 4 câu thơ cuối: Cắt nghĩa của tác giả về tình yêu

Giá trị nội dung:

Sự xúc động trước cuộc giao duyên huyền diệu của cả thế gian này,

Sự hoà quyện của ba mối tơ duyên chính thiên nhiên với thiên nhiên, con người với thiên nhiên và con người với con người.

Giá trị nghệ thuật:

Tính nhạc trong thơ

Chất văn xuôi trong thơ

Tượng trưng siêu thực

Trước khi đọc

Câu 1 (trang 68, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Phương pháp giải: Chia sẻ những cảm nhận, suy nghĩ của bản thân về thiên nhiên xung quanh ta.

Lời giải chi tiết:

Có thể trong số chúng ta, có những người chưa được đi hết những địa điểm tuyệt đẹp của đất nước Việt Nam hình chữ S thân yêu, nhưng qua sách vở, phương tiện truyền thông vẫn có thể khẳng định một điều rằng, Việt Nam ta quá đẹp. Cái đẹp ấy đến từ những điều giản dị nhất, quen thuộc nhất đối với con người như cánh đồng, hàng tre. Khi đi đường, quan sát hai bên, những cánh đồng xanh mướt trải dài thẳng tắp, những nương ngô thẳng hàng, đơn giản thế thôi nhưng cũng đủ làm cho đôi mắt người qua đường phải ngắm nhìn, phải trầm trồ vị vẻ đẹp ấy. Khi đi qua chúng, tôi đều quay lại ngước nhìn và thầm khâm phục những người nông dân hơn, tại sao những thứ tưởng chừng như không có gì lại mang một vẻ đẹp lạ đến thế? Quê hương ta đang ngày càng phát triển, thiên nhiên cũng dần có sự đổi mới nhưng tất cả vẫn mang một vẻ đẹp vừa đậm chất truyền thông, vừa pha sự hiện đại, hòa quyện với nhau tạo nên một Việt Nam tươi đẹp.

Câu 2 (trang 68, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Trong hình dung của bạn, bức tranh mùa thu có những hình ảnh, sắc màu, đường nét đặc trưng nào?

Phương pháp giải: Bản thân hình dung về bức tranh, khung cảnh mùa thu.

Mùa thu là mùa lãng mạn nhất trong năm. Trong hình dung của bản thân, bức tranh mùa thu tập trung vẽ khung cảnh lá rơi với những đường nét, nhẹ nhàng, thanh thoát, tượng trưng cho trạng thái nhẹ nhàng của những chiếc lá. Màu sắc chủ đạo là màu vàng và màu đỏ. Đây là bức tranh mùa thu mà em thấy lãng mạn và yên bình nhất.

Đọc văn bản

Đề bài: Lưu ý những từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật trong khổ 1. Đó là mối quan hệ như thế nào?

Phương pháp giải:

Đọc kĩ khổ thơ 1.

Chú ý những từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật trong khổ thơ.

Những từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật trong khổ 1:

Chiều mộng hòa trên nhánh duyên.

Cây me – cặp chim chuyền. (Cây me ríu rít cặp chim chuyền)

Trời xanh – lá (Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá).

Đề bài: Trong khổ 4, cảnh vật có sự thay đổi như thế nào so với khổ 1, 2?

Phương pháp giải: Đọc kĩ khổ thơ 1, 2, 4 để tìm ra sự thay đổi của cảnh vật trong các khổ.

Trong khổ thơ 4, cảnh vật có phần gấp gáp hơn, dường như báo hiệu một sự chia li giữa các cảnh vật. Điều này khác so với mối quan hệ thân thiết, quấn quýt của những cảnh vật trong khổ 1 và 2.

Sau khi đọc

Câu 1 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Bạn hiểu thế nào về từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên”?

Đọc kĩ toàn bộ bài thơ.

Nêu cách hiểu của bản thân về từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên”.

Duyên có nghĩa là quan hệ gắn bó, tựa như tự nhiên mà có chứ không sắp đặt. Theo cách hiểu của em, từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên” ý chỉ sự gặp gỡ vô tình của các cảnh vật xung quanh. Từ đó, nói lên mối duyên của “anh và em”.

Câu 2 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Phân tích, so sánh tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp,… trong việc gợi tả cảnh sắc thiên nhiên chiều thu ở khổ 1 và khổ 4.

Đọc kĩ khổ 1 và khổ 4.

Chú ý những từ ngữ đặc biệt, hình ảnh, vần và nhịp trong hai khổ thơ.

Khổ 1:

Thi sĩ Xuân Diệu sử dụng những từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các cảnh vật như hòa trên, ríu rít, đổ… qua.; từ tượng hình (đổ) và từ tượng thanh (ríu rít) à mối quan hệ thắm thiết, hòa quyện.

Sử dụng nhiều hình ảnh khác nhau tạo nên sự đa dạng cho cảnh sắc thiên nhiên. Đặc biệt là hình ảnh cây me – một hình ảnh thân thuộc của đường phố cổ Hà Nội vào thu, tạo cho người đọc cảm giác như đang được đắm chìm trong không gian phố cũ yêu thương của đất Tràng An xưa.

Vần “uyên” (duyên, chuyền, huyền) gợi lên sự nhẹ nhàng, tĩnh lặng trong một buổi chiều thu.

Khổ 4:

Tác giả sử dụng từ láy (gấp gấp, phân vân) tạo nên sự xa cách, sự thay đổi tâm trạng cảnh vật.

Vần “ân” cùng nhịp thơ như nhanh hơn.

Hình ảnh thơ quen thuộc với khung cảnh đồng quê (cánh cò)

Câu 3 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Trước những sắc thái và thời khắc khác nhau của bức tranh thiên nhiên chiều thu, duyên tình giữa “anh” và “em” có sự thay đổi như thế nào theo các khổ thơ. Có thể trả lời dựa vào bảng sau (làm vào vở):

Đọc kĩ toàn bộ bài thơ.

Chú ý cảnh sắc thiên nhiên và duyên tình “anh” và “em”.

Khổ thơ

Sắc thái thiên nhiên

Duyên tình “anh” – “em”

Khổ 1

Tươi vui, có mối quan hệ quấn quýt, mặn nồng, giao hòa.

Bắt đầu gặp gỡ

Khổ 2

Tươi vui

“Anh” và “em” có sự rung động

Khổ 3

Không đề cập đến cảnh sắc thiên nhiên.

“Anh” và “em” cùng dạo bước trên đường. “Em” thì tự nhiên, duyên dáng, “anh” say sưa ngắm đất trời. Duyên tình “anh” và “em” như được sắp đặt sẵn.

Khổ 4

Cảnh vật cô đơn giữa bầu trời xanh rộng lớn.

Bầu trời thu gần về cuối chiều, duyên tình “anh” và “em cũng dần xa nhau

Khổ 5

Cảnh vật êm dịu, thơ thẩn.

“Anh” ngơ ngẩn, ngẩn ngơ rồi nhận ra có lẽ mình đã phải lòng “em”

Câu 4 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Cảm xúc của “anh” “em” trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò như thế nào trong việc hình thành, phát triển duyên tình gắn bó giữa “anh” và “em”.

Phương pháp giải: Đọc kĩ toàn bộ bài thơ.

Cảm xúc của “anh”/”em” trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành, phát triển duyên tình gắn bó giữa “anh” và “em” bởi mối duyên tình ấy xuất phát từ cuộc gặp gỡ tình cờ trong một buổi chiều thu, cảm xúc trong chiều thu ấy cũng chính là sự phát triển cảm xúc trong lòng “anh” và “em”.

Câu 5 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Xác định chủ thể trữ tình và nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Phương pháp giải: Đọc kĩ toàn bộ bài thơ.

Chủ thể trữ tình trong bài thơ; “anh” và “em”.

Cảm hứng chủ đạo trong bài thơ: tình yêu.

Câu 6 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập một)

Đề bài: Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ấy).

Xuân Diệu cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu trong Thơ duyên rất độc đáo và gợi cảm. Ví dụ ở câu kết cuối bài “Lòng anh thôi đã cưới lòng em”, tác giả không dùng từ “phải lòng” hay “anh cưới em” mà là “lòng anh cưới em”. Chúng ta vẫn thường nghĩ đến mùa thu là một mùa tuy lãng mạn nhưng cũng buồn bã, cô đơn. Đó là tâm trạng phổ biến trong mỗi bài thơ về mùa thu của các tác giả, như trong Thu điếu của Nguyễn Khuyến. Tuy nhiên, khi đọc Thơ duyên ta lại thấy sự yêu đời, tươi trẻ trong những “duyên tình” qua sự gắn bó, tươi mới của cảnh vật thiên nhiên khi vào thu.

Thơ duyên là bài thơ duy nhất không buồn trong các bài thơ về mùa thu của Xuân Diệu.

Bài soạn tham khảo số 5

Bài soạn tham khảo số 1

Tác giả tác phẩm: Thơ duyên – Ngữ văn 10

I. Tác giả

1.Tiểu sử

Xuân Diệu (1916- 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu.

Quê: Can Lộc – Hà Tĩnh nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn.

Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn

Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức tham tá thương chánh.

Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn.

Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh.

Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng.

Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và làm việc tại Hà Nội đến khi mất.

2. Sự nghiệp văn học

Phong cách sáng tác

Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.

Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.

Di sản văn học

Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)… Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học.

3. Vị trí và tầm ảnh hưởng

Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.

Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996).

II. Tác phẩm Thơ duyên

Thể loại: Thể thơ thất ngôn (7 chữ)

Xuất xứ: Bài thơ được in trong tập Tuyển tập Xuân Diệu (thơ) – NXB Văn học, Hà Nội, 1986, tr 100 – 101)

Phương thức biểu đạt: Tự sự + Biểu cảm

Tóm tắt tác phẩm Thơ duyên

Bài thơ nói về tình yêu nhưng ở đây là tình yêu với cuộc sống, con người, thiên nhiên vẻ đẹp và sự hòa hợp với đời chính điều đó làm nên cái hay trong bài Thơ Duyên của Xuân Diệu.

Bố cục tác phẩm Thơ duyên

3 phần

Đoạn 1: khổ 1,2: Khung cảnh một buổi chiều thu

Đoạn 2: khổ 3: Sự hòa hợp trong tâm hồn nhà thơ

Đoạn 3: khổ 4,5: Vạn vật trong thơ duyên trở nên có linh tính.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thơ duyên

Khung cảnh của một buổi chiều thu

Nhìn vào buổi chiều thu nhà thơ thấy được một cái đẹp rất riêng.

Đó là một buổi chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.

Ở đó có tiếng chim hót ríu vang, có màu xanh của lá cũng trở nên xanh hơn, có bầu trời tuyệt đẹp. Các yếu tố đó đã tổng hòa với nhau tạo thành một cái duyên, một cái thơ rất đẹp, đáng yêu, yêu kiều…

Lúc này cả không gian đều được hiện ra trong vẻ đẹp tuyệt mĩ của mình.

Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng lại huyền diệu vô cùng. Từ đó mọi điều bình thường bỗng chốc trở nên khác thường và dẹp hơn.

Sự hòa hợp trong tâm hồn của nhà thơ

Con đường bé nhỏ ấy đã trở nên đẹp hơn và ngọn gió chiều cũng đã thổi se sẽ hơn. – Những cánh hoa lả xuống trước ngọn gió liêu xiêu. Sự hòa hợp trong chính tâm hồn.

Từ nỗi yêu thương ấy đã làm nhà thơ muốn đi đến tận cùng tình cảm của mình. -àĐó là một điều rất lạ và cũng rất đỗi ngạc nhiên.

Câu thơ cuối cùng với ý nghĩa là một cặp vần. Đó cũng chính là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái kỳ diệu trong thơ.

Vạn vật trong Thơ duyên cũng trở nên có linh tính

Khi nhận ra được sự thay đổi trong lòng mình nhà thơ đã nhìn ra vạn vật xung quanh.

Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức mạnh diệu kỳ. Khi này vạn vật không còn vô tri, vô giác nữa mà đã trở nên có linh tính hơn.

Chúng cũng biết yêu thương, xao động như những con người.

Từ một đám mây, cánh cò, cánh chim, bông hoa đều có những sự trăn trở bên trong.

Câu thơ này thể hiện được cái náo nức, phân vân của một thế hệ thơ mới, thế hệ của những nhà thơ hiện đại.

Bài soạn tham khảo số 5

Bài soạn tham khảo số 4

Xuân Diệu (1916 – 1985), tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu.

Quê quán: Quê nội ở Hà Tĩnh, Quê ngoại ở Bình Định.

Làm thơ khi còn rất sớm, nổi tiếng với phong trào Thơ Mới.

Phong cách nghệ thuật: dồi dào những rung động tươi mới, tràn trề tình yêu, niềm khát khao giao cảm với đời.

Tác phẩm chính: Thơ thơ, Gửi hương cho gió,…

Thể loại: Thơ mới 7 chữ

Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: In trong Tuyển tập thơ Xuân Diệu

Bài soạn tham khảo số 5

III. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm

IV. Bố cục:

Đoạn 1: 6 câu thơ đầu: Bức tranh thiên nhiên

Đoạn 2: 6 câu thơ tiếp: Vương quốc của tình yêu

Đoạn 3: 4 câu thơ tiếp: Cảnh thiên nhiên li tán

Đoạn 4: 4 câu thơ cuối: Cắt nghĩa của tác giả về tình yêu

V. Giá trị nội dung:

Sự xúc động trước cuộc giao duyên huyền diệu của cả thế gian này,

Sự hoà quyện của ba mối tơ duyên chính thiên nhiên với thiên nhiên, con người với thiên nhiên và con người với con người.

VI. Giá trị nghệ thuật:

Tính nhạc trong thơ

Chất văn xuôi trong thơ

Tượng trưng siêu thực

VII. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thơ duyên

Bức tranh thiên nhiên

Ngay từ câu thơ đầu này, Xuân Diệu đã sẵn sàng làm “mất đi một tí rõ ràng để được thêm rất nhiều thơ mộng” – tức là thủ pháp mơ hồ hoá

Cành hoang như lả mình vào nắng, trong khi nắng ý tứ né mình gượng tránh, chưa muốn đón nhận một cử chỉ lả lơi, mà thi sĩ diễn tả bằng cái điệu đến là yêu kiều “nắng trở chiều”.

Vương quốc của tình yêu

Hai chữ buổi ấy và lần đầu đánh dấu một đột biến trong tâm hồn.

Kiểu xưng hô đĩnh đạc của một tình nhân cũng bắt đầu tiếm quyền: Ta – Bạn thành Anh – Em.

Cảnh thiên nhiên li tán

Gợi tình thì đôi chim ríu rít, gợi buồn lại chỉ có một con cò.

Sự phân lập có chủ ý giữa hai cảnh sắc là mảnh vườn tình ái và hoang mạc vô liêu

4 câu thơ cuối: Cắt nghĩa của tác giả về tình yêu

Chữ thôi đã nói cái thế không thể cưỡng lại, không thể còn đảo ngược, một sự đã rồi.

Chữ cưới lòng nói được một cuộc đính ước ngầm, một cuộc hôn nhân bí mật của hai tâm hồn.

* Trước khi đọc:

Câu 1 (trang 68 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Trả lời:

Câu 2 (trang 68 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Trong hình dung của bạn, bức tranh mùa thu có những hình ảnh, sắc màu, đường nét đặc trưng nào?

Trong hình dung của tôi, bức tranh mùa thu sẽ có những nét đặc trưng sau:

Hình ảnh: có lá vàng rơi, nhẹ nhàng

Màu sắc: màu vàng sẽ là màu chủ đạo xuất hiện nhiều nhất vào mùa thu.

Đường nét, không gian thu thanh mát mẻ, dịu dàng.

* Đọc văn bản

Theo dõi: Lưu ý những từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật trong khổ 1. Đó là mối quan hệ như thế nào?

Từ ngữ chỉ mối quan hệ: ”Cặp chim chuyền”. Đây là mối quan hệ có đôi có cặp, gắn bó với nhau.

Suy luận: Trong khổ 4, cảnh vật có sự thay đổi như thế nào so với khổ 1,2?

Trả lời: So với khổ 1,2, cảnh vật ở khổ 4 mang một màu sắc trầm hơn và có vẻ dồn dập, nhanh chóng hơn. Qua từ ”gấp gáp”, ta thấy được sự hối hả, thúc giục chứ không yên bình như ở khổ 1 và khổ 2

* Sau khi đọc

Nội dung chính: Bài thơ cho thấy khung cảnh mùa thu đẹp đẽ, thơ mộng, tinh khôi và tươi mới, đầy sức sống qua cái nhìn của những người trẻ đang tràn đầy nhiệt huyết, yêu đời, yêu người.

Trả lời câu hỏi:

Câu 1 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Bạn hiểu thế nào về từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên”?

Cách hiểu về từ “duyên”: nghĩa từ “duyên” rất phong phú: chỉ quan hệ vợ chồng, những gặp gỡ trong đời, quan hệ gắn bó như tự nhiên mà có, sự duyên dáng,…

Cách hiểu về từ “duyên” trong Thơ duyên: Bức tranh thu ở đây là sự giao hòa, giao duyên tựa như tự nhiên mà có giữa thiên nhiên với thiên nhiên, con người với thiên nhiên và con người với con người. Thơ duyên nói về những duyên tình đẹp đẽ ấy.

Câu 2 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Phân tích, so sánh tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp,… trong việc gợi tả cảnh sắc thiên nhiên chiều thu ở khổ 1 và khổ 4.

Nét tương đồng: Đều là những bức tranh thiên nhiên miêu tả vẻ đẹp phong phú và giàu cảm xúc của mùa thu, thầm kín gợi lên khao khát lứa đôi.

Nét khác biệt:

Khổ thứ nhất: Bức tranh chiều thu tươi vui, trong ngần, mơ mộng với hình ảnh cặp chim chuyền ríu rít nơi vòm me, bầu trời thu xanh trong đang tuôn tràn ánh sáng ngọc qua kẽ lá và khúc giao hòa du dương của đất trời vào thu tựa như tiếng đàn lan tỏa dịu dàng, sâu lắng trong không gian

Khổ thứ tư: Cảnh chiều thu chuyển sang thời khắc mới: “chiều thưa” với “sương xuống dần”. Các hình ảnh ở đây đều đơn lẻ, cô độc: áng mây, cánh chim… đang vội vã, “phân vân” tìm nơi chón của mình khi chiều lạnh dần buông.

Câu 3 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Trước những sắc thái và thời khắc khác nhau của bức tranh thiên nhiên chiều thu, duyên tình giữa “anh” và “em” có sự thay đổi như thế nào theo các khổ thơ. Có thể trả lời dựa vào bảng sau (làm vào vở):

Duyên tình “anh” – “em”

Khổ…

1

Chiều thu tươi vui, trong sáng, hữu tình.

Không gian thời gian gợi duyên tình.

2 và 3

Con đường thu nhỏ nhỏ, cây lá lả lơi, yểu điệu trong gió…mời gọi những bước chân đôi lứa.

Nghe tiếng lòng mình, lòng nhau cùng rung động; sự gắn bó mặc nhiên, anh với em đã gắn bó như “một cặp vần”.

4

Chiều thu sương lạnh xuống dần chòm mây cô đơn, cánh chim cô độc…đều tìm về nơi chốn của mình

Bước chuyển sự sống, không gian cuối buổi chiều, trước hoàng hôn

Xao động tâm hồn, gợi nhắc thôi thúc kết đôi

5

Mùa thu đến rất nhẹ, “thu lặng”, “thu êm”; không gian chan hòa sắc thu, tình thu

Thu chiều hôm: lặng êm, ngơ ngẩn

Sự xui khiến đầy ma lực: “kết duyên”.

Trông cảnh chiều thu mà lòng “ngẩn ngơ” khiến: Lòng anh thôi đã cưới lòng em.

Câu 4 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Cảm xúc của “anh”/“em” trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò như thế nào trong việc hình thành, phát triển duyên tình gắn bó giữa “anh” và “em”.

“Anh” và “em” đều là những tâm hồn giàu cảm xúc, xao xuyến, rung động trước vẻ đẹp của thiên nhiên chiều thu

Chiều thu hữu tình, mọi vật đều có lứa đôi khiến con người cũng mong muốn có đôi có lứa. Khi chiều buông lạnh, những sinh linh cô độc cũng khao khát tìm nơi chốn của mình.

Câu 5 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Xác định chủ thể trữ tình và nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Xác định chủ thể trữ tình trong bài Thơ duyên có hai dạng:

Chủ thể ẩn: không xuất hiện trực tiếp, người đọc chỉ cảm nhận được có một ai đó (chủ thể) đang quan sát và bộc lộ cảm xúc.

Chủ thể có danh xưng rõ ràng (anh)

Câu 6 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1 – Chân trời sáng tạo):

Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ấy).

Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua bài Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ấy).

Quan sát các câu thơ có miêu tả khung cảnh thiên nhiên mùa thu.

Phân tích một vài hình ảnh thiên nhiên mà mình có ấn tượng sâu sắc nhất, từ đó nêu lên nét độc đáo của Xuân Diệu khi miêu tả thiên nhiên.

Có thể lấy đoạn thơ

“Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu

La lả cành hoang nắng trở chiều

Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân”

Khung cảnh chiều thu vui tươi, trong sáng, hữu tình huyền diệu

Con đường thu được tác giả miêu tả nho nhỏ, cây lá lả lơi, yểu điệu trong gió… mời gọi những bước chân đôi lứa

Sang khổ thơ thứ tư chiều thu sương lạnh xuống dần, chòm mây cô đơn, cánh chim cô độc, đều tìm về nơi chốn của mình.

Các từ láy xiêu xiêu, nho nhỏ, gấp gấp, phân vân làm cho nhịp điệu bài thơ uyển chuyển, bay bổng.

Bài soạn tham khảo số 3

Giây phút giao mùa.

Màu vàng rực của lá mùa thu.

Lớp sương sớm giăng mắc trên các ngọn cây.

Câu 2 (trang 68 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Trong hình dung của bạn, bức tranh mùa thu có những hình ảnh, sắc màu, đường nét đặc trưng nào?

Mặt nước “trong veo”: sự dịu nhẹ, thanh sơ của mùa thu

Sóng biếc: Gợi hình ảnh nhưng đồng thời gợi được cả màu sắc, đó là sắc xanh dịu nhẹ và mát mẻ, phải chăng là sự phản chiếu màu trời thu trong xanh

Lá vàng trước gió: Hình ảnh và màu sắc đặc trưng của mùa thu Việt Nam

Hình ảnh trời xanh ngắt: sắc xanh của mùa thu lại được tiếp tục sử dụng, nhưng không phải là màu xanh dịu nhẹ, mát mẻ mà xanh thuần một màu trên diện rộng

Từ ngữ chỉ mối quan hệ: ”Cặp chim chuyền”. Thể hiện mối quan hệ thành cặp đôi, luôn gắn bó bên cạnh nhau.

So với khổ 1,2, cảnh vật ở khổ 4 mang một màu sắc trầm hơn và có vẻ dồn dập, nhanh chóng hơn. Qua từ “gấp gấp”, ta thấy được sự hối hả, thúc giục chứ không yên bình như ở khổ 1 và khổ 2.

Nội dung chính: Bài thơ là một bức tranh thu vô cùng êm đềm và đẹp đẽ xen lẫn những cảm xúc xao xuyến và rung động của tác giả về tình cảm lứa đôi.

Câu 1 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Bạn hiểu thế nào về từ “duyên” trong nhan đề “Thơ duyên”?

Từ “duyên” hiểu theo lẽ thường là chỉ tình cảm, sự gặp gỡ giữa con người trong cuộc sống. Trong bối cảnh bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu, ta có thể hiểu chữ duyên ở đây là chỉ sự gắn kết, gắn bó, hòa hợp giữa vạn vật.

Câu 2 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Phân tích, so sánh tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp,… trong việc gợi tả cảnh sắc thiên nhiên chiều thu ở khổ 1 và khổ 4.

1.

“Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,

Cây me ríu rít cặp chim chuyền

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”

Nội dung: Hình ảnh ” ríu rít cạp chim chuyên”,” trời xanh ngọc”, miêu tả một khung cảnh vui vẻ, rộn rã với ”tiếng huyền”.Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ “đổ” tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Cụm từ “thu đến” như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.

Cách gieo vần ở vần ”uyên” : duyên, chuyền, huyền. Đây là vần bằng. Cách gieo vần tạo co khổ thơ nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái

Các từ láy được sử dụng như ” ríu rít”,”nơi nơi” diễn tả một không bừng sáng, vui vẻ muôn nơi

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp,

Con cò trên ruộng cánh phân vân.

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần.”

Nội dung: Càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. “Hoa lạnh” vì có thể do “đẫm sương” hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.

Khổ thơ nhiều vần trắc , thể hiện sự hối hả, gấp gáp hơn so với khổ 1

Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy “gấp gấp” tạo cảm giác hối hả, thúc giục

Câu 3 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1):

Không gian là buổi “chiều mộng” – lãng mạn, êm ái hòa vào đó “thơ trên nhánh duyên” gợi nên khung cảnh trữ tình.

Màu sắc là một mày xanh tươi vui, rộn rã

Hài hòa, tuyệt đẹp

2

Cảnh nắng chiều ở đây mang nét mạnh mẽ hơn cảnh nắng ở khổ 1

Có một sự rung động đến từ trái tim. Trên con đường đó, mọi rung động nhỏ nhất của cảm xúc bị phát hiện, bất kể người ta có cố gắng giấu chúng bằng cách nào đi nữa

Chiều thu tàn, không gian mở rộng, bắt đầu trở nên gấp gáp hơn. Trời trở nên lạnh hơn

Xao xuyến, bâng khuâng, có chút lo lắng trước sự giá lạnh, cô đơn

Sự êm ả của mùa thu, tĩnh lặng như chẳng có gì đặc biệt

Hòa hợp tự nhiên, cảm nhận về hạnh phúc với mức độ cao nhất

Câu 4 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Cảm xúc của “anh”/“em” trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò như thế nào trong việc hình thành, phát triển duyên tình gắn bó giữa “anh” và “em”.

Thiên nhiên chiều thu như thúc đẩy, hòa hợp trong cảm xúc cùng “anh” và “em”.

Sự hòa hợp từ thiên nhiên cho đến con người làm chữ duyên của bài thơ trở nên đặc sắc hơn.

Từ những cảm xúc lâng lâng, rạo rực trước nuổi ắng chiều chiều thu cho đến bâng khuâng, lo lắng, bồi hồi trước cảnh chiều tà kèm gió se se lạnh, mối duyên tình như được vẽ theo từng khu bậc cảm xúc.

Sự hòa hợp, gắn kết nhất ”Lòng anh thôi đã cưới lòng em”.

Câu 5 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Xác định chủ thể trữ tình và nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ.

Chủ thể trữ tình xuyên suốt bài thơ chính là ”anh”. Từng khổ thơ là những cảm xúc của nhân vật trữ tình đối với tình yêu, được miêu tả qua khung cảnh thiên nhiên chiều thu.

Tình yêu, rung động trong tình yêu chính là cảm hứng chủ đạo mà Xuân Diệu đưa vào.

Chữ duyên, chữ tình được khắc họa dựa trên những thay đổi của thiên nhiên, từ lúc nắng lên cho tới lúc chiều tàn

Câu 6 (trang 69 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 1): Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua Thơ duyên (có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ấy).

Nét độc đáo trong của Xuân Diệu trong việc miêu tả mùa thu ở Thơ Duyên chính là việc nhìn, tả cảnh vật qua con mắt của một tâm hồn dạt dào cảm xúc, biết rung động trước tình yêu. Thiên nhiên, vốn dĩ không phải là hiện tượng mới mẻ trong thơ, nếu không nói đã là thi liệu có từ rất lâu đời trong văn học. Các nhà thơ trung đại cũng đã có thủ pháp tả cảnh ngụ tình, hoặc đều hướng lòng mình vào vạn vật để soi rọi, để tỏ bày. Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan…, đều đã có nhiều bài thơ hay trong đó mượn cảnh để nói tình rất đặc sắc. Tuy nhiên, đến với Thơ duyên của Xuân Diệu, ta lại cảm nhận được thiên nhiên với những sắc màu khác nhau, những tâm trạng với niềm vui và nỗi buồn đều mới, mang một nét gì đó trẻ trung, sôi nổi nhưng vẫn có một nét trầm lặng.

Như cảnh chiều thu sinh động tràn ngập âm thanh và sắc màu sự sống ở khổ đầu

”Chiều mộng hoà thơ trên nhánh duyên

Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”

Dường như thi nhân không nhìn trời thu bằng mắt mà đang nhìn bằng hồn vía say sưa, nên cảnh vật cứ lung linh trong vẻ duyên dáng đa tình mà lâng lâng cảm xúc: “con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu; lả lả cành hoang, nắng trở chiều”, để từ “cái cớ” thiên nhiên ấy, nhà thơ dẫn người đọc vào câu chuyện tình tứ rất duyên, dẫu chưa phải là chuyện tình yêu đôi lứa.

Hay như cảnh chiều tà ở khổ bốn

“Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần”

Đến khổ thơ này Xuân Diệu lại bày tỏ một nỗi bồi hồi, thương nhớ, xao xuyến. Mây bay gấp gấp, chim sải cách rộng bay. Tất cả tạo nên một bức tranh chiều ta qua rung cảnh của nhà thơ: hối hả nhưng vẫn mang màu sắc của mùa thu. Chỉ la xao xuyến, bồi hồi hơn.

Bài soạn tham khảo số 6

Bài soạn tham khảo số 3

Câu 1: Lưu ý các từ ngữ chỉ mối quan hệ giữa các sự vật trong khổ 1. Đó là mối quan hệ như thế nào?

Từ ngữ chỉ mối quan hệ: ”Cặp chim chuyền”. Đây là mối quan hệ có đôi có cặp, gắn bó với nhau

Câu 2: Trong khổ 4, cảnh vật hiện có sự thay đổi như thế nào so với khổ 1,2 ?

Trả lời

So với khổ 1,2, cảnh vật ở khổ 4 mang một màu sắc trầm hơn và có vẻ dồn dập, nhanh chóng hơn. Qua từ ”gấp gáp”, ta thấy được sự hối hả, thúc giục chứ không yên bình như ở khổ 1 và khổ 2

B. Bài tập và hướng dẫn giải

Câu 1: Bạn hiểu thế nào về từ ”duyên” trong nhan đề ”Thơ duyên” ?

Bài giải:

Từ ”duyên” hiểu theo lẽ thường là chỉ một mối nhân duyên giữa người với người, vật với vật. Trong bối cảnh bài thơ Thơ duyên của Xuân Diệu, ta có thể hiểu chữ duyên ở đây là chỉ sự gắn kết, gắn bó, hòa hợp giữa vạn vật

Câu 2: Phân tích, so sánh tác dụng của từ ngữ, hình ảnh, vần, nhịp,..trong việc gợi tả cảnh sắc thiên nhiên chiều thu ở khổ 1 và khổ 4.

1.”Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,

Thu đến – nơi nơi động tiếng huyền.”

Cách gieo vần ở vần ”uyên” : duyên, chuyền, huyền. Đây là vần bằng. Cách gieo vần tạo co khổ thơ nhịp điệu nhẹ nhàng, êm ái

Các từ láy được sử dụng như ” ríu rít”,”nơi nơi” diễn tả một không bừng sáng, vui vẻ muôn nơi

Không gian ”chiều mộng” nên thơ trữ tình. Hình ảnh ” ríu rít cạp chim chuyên”,” trời xanh ngọc”, miêu tả một khung cảnh vui vẻ, rộn rã với ”tiếng huyền”.Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ “đổ” tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn

Cụm từ “thu đến” như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.

2.”Mây biếc về đâu bay gấp gấp,

Khổ thơ nhiều vần trắc , thể hiện sự hối hả, gấp gáp hơn so với khổ 1

Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy “gấp gấp” tạo cảm giác hối hả, thúc giục

”Chim ngang trời rộng”, chiều thu tàn , bầu trời như mở rộng hơn

Càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. “Hoa lạnh” vì có thể do “đẫm sương” hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.

Câu 3: Trước những sắc thái và thời khắc khác nhau của bức tranh thiên nhiên chiều thu, duyên tình giữa ”anh” và ”em” có sự thay đổi như thế nào theo các khổ thơ? Có thể trả lời dựa vào bảng sau ( làm vào vở)

Duyên tình ‘’anh’’-‘’em’’

Không gian là buổi “chiều mộng” – lãng mạn, êm ái hòa vào đó “thơ trên nhánh duyên” gợi nên khung cảnh trữ tình.

Màu sắc là một mày xanh tươi vui, rộn rã

Hài hòa, tuyệt đẹp

Cảnh nắng chiều ở đây mang nét mạnh mẽ hơn cảnh nắng ở khổ 1

“Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,

Lả lả cành hoang nắng trở chiều.’’

Có một sự rung động đến từ trái tim. Trên con đường đó, mọi rung động nhỏ nhất của cảm xúc bị phát hiện, bất kể người ta có cố gắng giấu chúng bằng cách nào đi nữa

Chiều thu tàn, không gian mở rộng, bắt đầu trở nên gấp gáp hơn. Trời trở nên lạnh hơn

Xao xuyến, bâng khuâng, có chút lo lắng trước sự giá lạnh, cô đơn

Sự êm ả của mùa thu, tĩnh lặng như chẳng có gì đặc biệt

Hòa hợp tự nhiên, cảm nhận về hạnh phúc với mức độ cao nhất

Câu 4: Cảm xúc của ‘’anh’’/’’em’’ trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò như thế nào trong việc hình thành,phát triển duyên tình giữa ‘’anh’’ và ‘’em’’ ?

Cảm xúc của ”anh” và ”em ”trước thiên nhiên chiều thu như giúp phát triển mối duyên tình giữa ”anh” và ”em”. Từ những cảm xúc lâng lâng, rạo rực trước nuổi ắng chiều chiều thu cho đến bâng khuâng, lo lắng, bồi hồi trước cảnh chiều tà kèm gió se se lạnh, mối duyên tình như được vẽ theo từng khu bậ cảm xúc để bước tới sự hòa hợp, gắn kết nhất ”Lòng anh thôi đã cưới lòng em”. Sự hòa hợp từ thiên nhiên cho đến con người làm chữ duyên của bài thơ trở nên đặc sắc hơn.

Câu 5: Xác định chủ thể trữ tình và nêu cảm hứng chủ đạo của bài thơ

Chủ thể trữ tình xuyên suốt bài thơ chính là ”anh”. Từng khổ thơ là những cảm xúc của nhân vật trữ tình đối với tình yêu, được miêu tả qua khung cảnh thiên nhiên chiều thu. Tình yêu, rung động trong tình yêu chính là cảm hứng chủ đạo mà Xuân Diệu đưa vào. Chữ duyên, chữ tình được khắc họa dựa trên những thay đổi của thiên nhiên, từ lúc nắng lên cho tới lúc chiều tàn

Câu 6: Chỉ ra nét độc đáo trong cách cảm nhận và miêu tả thiên nhiên mùa thu của Xuân Diệu qua Thơ duyên ( Có thể so sánh với một vài bài thơ khác để làm rõ nét độc đáo ây)

Dường như thi nhân không nhìn trời thu bằng mắt mà đang nhìn bằng hồn vía say sưa, nên cảnh vật cứ lung linh trong vẻ duyên dáng đa tình mà lâng lâng cảm xúc: “con đường nhỏ nhỏ, gió xiêu xiêu; lả lả cành hoang, nắng trở chiều”, để từ “cái cớ” thiên nhiên ấy, nhà thơ dẫn người đọc vào câu chuyện tình tứ rất duyên, dẫu chưa phải là chuyện tình yêu đôi lứa. Hay như cảnh chiều tà ở khổ bốn:

Đến khổ thơ này Xuân Diệu lại bày tỏ một nỗi bồi hồi, thương nhớ, xao xuyến. Mây bay gấp gấp, chim sải cách rộng bay. Tất cả tạo nên một bức tranh chiều ta qua rung cảnh của nhà thơ: hối hả nhưng vẫn mang màu sắc của mùa thu. Chỉ la xao xuyến, bồi hồi hơn

Bài soạn tham khảo số 6

Bài soạn tham khảo số 2

Bài soạn tham khảo số 6

Trước khi đọc bài Thơ duyên

Câu 1 (trang 68, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Lời giải

Câu 2 (trang 68, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Hình dung: Mùa thu hiện lên trong em là mùa thu của sự ngọt ngào. Không còn cái nắng gay gắt, oi ả của mùa hè, thay vào đấy, mùa thu với tiết trời mát mẻ, quang cảnh vô cùng thoáng đãng, Thu đến, trên cành cây, những phiến lá chuyển màu từ xanh sang vàng. Mọi cung đường ngập tràn màu vàng lãng mạn, nhẹ nhàng.

Đọc hiểu bài Thơ duyên

Lưu ý:

Chiều mộng – nhánh duyên.

Cây me – cặp chim chuyền.

Trời xanh – lá.

Đó là mối quan hệ hài hòa, gần gũi với nhau. Đó là những sự vật luôn đi kèm với nhau, không thể tách rời.

Sự thay đổi: một cảm giác gấp gáp, chuyển động nhanh, như dự cảm điều gì đấy không lành. Nếu ở các khổ thơ trước, giữa các sự vật có sự gắn kết quyến luyến, bền chặt, thì sang khổ thơ thứ 4, cảnh vật đang sắp sửa chia li.

Sau khi đọc bài Thơ duyên

Câu 1 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Theo em, duyên ở đây là sự ngẫu nhiên, tự nó đến mà không có sự sắp xếp hay sắp đặt. Đó là sự gặp gỡ vốn có của những sự vật với nhau.

Câu 2 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Khổ 1: Cảnh thu vào một buổi chiều mộng đầy trữ tình.

Hàng loạt từ ngữ chỉ mối quan hệ “hòa”, “cặp”, “đổ…qua” cho thấy sự gắn bó giữa các sự vật khi thu đến. Hơn nữa, cặp từ tượng thanh “ríu rít” làm tăng sự thân mật, gần gũi đến bất ngờ.

Hình ảnh quen thuộc mà chúng ta dễ dàng bắt gặp trên con đường phố cổ Hà Nội vào mùa thu, đấy chính là hình ảnh cây me. Xuân Diệu đưa chúng ta về với cảm giác ấm cúng, hoài niệm, yên bình, mang vẻ đặc trưng khó lòng phôi phai.

03/04 câu trong một khổ sử dụng vần “uyên” (duyên, chuyền, huyền) gợi lên sự đằm thắm, dịu nhẹ mà thơ mộng.

Khổ 4: Cảnh vật đặt trong sự rộng lớn của không gian, không còn tươi tỉnh như khổ 1, hiện lên trong khổ 4 là sự buồn hiu, chạnh lòng.

Hình ảnh rất đỗi quen thuộc của bao người con đất Việt, ấy chính là khung cảnh cánh đồng cò lúa bay. Đó là không gian rộng lớn, thoáng đãng.

Từ láy “gấp gấp” chỉ sự nhanh lẹ, chuyển động nhanh, có gì đấy gấp gáp còn từ láy “phân vân” cho bạn đọc thấy được sự lưng chừng, có gì đấy còn vương vấn, nửa muốn đi nửa muốn ở lại.

02/04 câu trong một khổ sử dụng vần “ân (vân, dần) kết hợp cùng nhịp thơ có sự chuyển biến nhanh, không còn chậm rãi như trước nữa, gợi lên sự vội vã đến nghẹt thở.

Câu 3 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10, tập 1)

Câu 4 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Đề bài: Cảm xúc của “anh”/“em” trước thiên nhiên chiều thu giữ vai trò như thế nào trong việc hình thành, phát triển duyên tình gắn bó giữa “anh” và “em”.

Lời giải:

Vai trò: là chất xúc tác để phát triển duyên tình giữa anh và em. Anh và em gặp nhau trong một chiều mộng thu, có những rung động cùng nhau.

Câu 5 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Chủ thể trữ tình: “anh” và “em”.

Cảm hứng chủ đạo: cảm hứng về tình yêu.

Câu 6 (trang 69, SGK Ngữ Văn 10 tập 1)

Nét độc đáo: Tìm hiểu về nhà thơ Xuân Diệu, đọc những tác phẩm của ông, có thể khẳng định rằng, trong các bài thơ viết về mùa thu, đây là bài thơ duy nhất không mang đậm chất nỗi ưu buồn. Duyên tình trong bài thơ tuy có sự chia li, xa cách, nhưng không mang cảm hứng buồn bã nhiều, mà trái lại, bởi đấy là duyên, nên khi gặp nhau, đã thấy được sự thân quen, tựa như gắn bó đã lâu. Nói cách khác, đó là sự an bài của tạo hóa. Hơn nữa, ở phần kết, Xuân Diệu sử dụng cụm “lòng anh thôi đã cưới lòng em” gợi sự nhí nhảnh nhưng cũng đầy lãng mạn. “Anh” nhận ra mình đã phải lòng “em” mất rồi. Thiên nhiên mùa thu hiện lên với những hình ảnh gần gũi, đỗi quen thuộc, nhưng qua cách chọn lọc hình ảnh, sử dụng câu từ, vần, nhịp mà hồn thơ trở nên tươi tắn, cuốn hút bạn đọc. Các sự vật khăng khít với nhau, khiến chủ thể trữ tình cũng như vậy. Khác với với bài “Thu điếu” của nhà thơ Nguyễn Khuyến”, mùa thu tuy đẹp mà buồn man mác. Không gian được nhìn từ nhiều góc cạnh, cái tĩnh lặng đến bặt người trong cảnh lẫn tình.

Bài soạn tham khảo số 2

Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình – sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!

Đăng bởi: Lữ Thị Yến

Từ khoá: 6 Bài soạn “Thơ duyên” trong SGK Chân trời sáng tạo – Ngữ văn 10 hay nhất

6 Bài Soạn “Ánh Trăng” Của Nguyễn Duy Lớp 9 Hay Nhất

Bài thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy là một bài thơ hay viết vào năm 1978, ba năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, được nhà thơ viết tại Thành phố Hồ Chí Minh in trong tập “Ánh trăng”. Tác phẩm là sự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên đất nước bình dị và hiền hậu. Qua đó, tác giả muốn nhắn gửi tới người đọc hãy sống thủy chung, ân tình với quá khứ. Mời các bạn đọc tham khảo một số bài soạn hay nhất mà chúng mình đã tổng hợp trong bài viết sau để hiểu tác phẩm và chuẩn bị tốt nội dung tiết học.

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 6

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả

Nguyễn Duy sinh năm 1948 tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ. Quê ở Đông Vệ, Thanh Hóa.

Năm 1966, ông gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường. SAu 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

Ông được trao giải Nhất cuộc thi của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973. Trở thành gương mặt tiêu bieru trong lớp nhà thơ trẻ tuổi thời chống Mĩ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác

2. Tác phẩm

Tập thơ “Ánh trăng” của Nguyễn Duy được tặng giải A của Hội nhà văn Việt Nam năm 1984. Bài thơ “Ánh trăng” trích từ tập ầy và được sáng tác năm 1978 ở Thành phố Hồ Chí Minh.

II. Hướng dẫn soạn bài Ánh trăng đọc hiểu chi tiết

Câu 1 trang 157 SGK ngữ văn 9 tập 1:

Nhận xét bố cục: Bố cục bài thơ đi theo trình tự từ quá khứ đến hiện tại như một câu chuyện bao gồm 3 phần:

Câu 2 trang 157 SGK ngữ văn 9 tập 1:

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang những tầng nghĩa sau:

Kể chi người vô tình

Ánh trăng im phăng phắc

Đủ cho ta giật mình”

Câu 3 trang 157 SGK ngữ văn 9 tập 1:

Tác phẩm có kết cấu độc đáo. Bài thơ như một chuyện nhỏ, phát triển theo thời gian. Quá khứ hồn nhiên, trần trụi với thiên nhiên, thân thiết với vầng trăng. Hiện tại, về thành phố sống với các tiện nghi, cửa gương, điện sáng. Vầng trăng bị lu mờ coi như người dưng qua đường. Nhờ mất điện mà gặp lại vầng tẳng, giật mình về thái độ sống vô tình của mình. Chính sự giật mình là một yếu tố quan trọng. nó là sự bừng thức để soi lại bản thân, xét lại cách sống vô tình, dửng dưng quay lưng với quá khứ tốt đẹp, tình nghĩa.

Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu sa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh về quá khứ.

Câu 4 trang 157 SGK ngữ văn 9 tập 1:

III. Luyện tập bài Ánh trăng

Đọc diễn cảm bài thơ

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 2

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 6

Trả lời câu 1 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Lời giải chi tiết:

Bài thơ có bố cục ba phần, ở mỗi phần có sự thay đổi giọng thơ:

– Phần 1: Ba khổ thơ đầu, giọng kể, nhịp thơ trôi chảy bình thường.

– Phần 2: Khổ thơ thứ tư: Giọng thơ đột ngột rất cao, ngỡ ngàng với bước ngoặt của sự việc, của sự xuất hiện vầng trăng.

– Phần 3: Khổ năm và sáu: Giọng thơ thiết tha rồi trầm lắng cùng với những cảm xúc, suy tư lặng lẽ.

Trả lời câu 2 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm

– Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng lớp ý nghĩa.

+ Vầng trăng trước hết là trăng của thiên nhiên, của đất trời.

+ Trăng là biểu tượng cho những gì gắn bó với con người lúc gian khổ.

+ Trăng là tình cảm quá khứ hồn nhiên, tươi đẹp.

+ Trăng cũng là phần trong sáng, phần tốt đẹp trong con người luôn soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, góc tối mới nảy sinh khi con người sống với nhà lầu, cửa gương, với những tiện nghi vật chất.

– Khổ thơ cuối thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lý của tác phẩm”. “Trăng cứ tròn vành vạnh” như tượng trưng cho quá khứ đẹp dẽ, nguyên vẹn chẳng thể phai mờ. Quá khư đẹp đẽ vĩnh hằng trong vũ trụ : “ánh trăng im phăng phắc” như một người bạn, một nhân chứng nghĩa tình mà nghiêm khắc. Cái im lặng ấy như đang nhắc nhở nhà thơ, nhắc nhở tất cả chúng ta. Con người có thể vô tình, có thể lãng quên nhưng thiên nhiên nghĩa tình, quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt, hồn hậu và rộng lượng.

Trả lời câu 3 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

* Kết cấu:

– Hai khổ thơ đầu là hình ảnh vầng trăng thở nhỏ và những ngày ở rừng trong chiến tranh. Những ngày ấy khắc ghi đinh ninh trong lòng mối tình với vầng trăng tình nghĩa, vầng trăng tri kỷ.

– Khổ thơ thứ ba : Hòa bình, về thành phố, quen với ánh sáng điện, với tiện nghi hiện đại. Vầng trăng đã trở thành người dưng, quá khứ nghĩa tình đã rơi vào lãng quên.

– Khổ thơ thứ tư : Sự việc bất thường : Mất điện, tối om, bật tung cửa bỗng lại thấy vầng trăng tròn. Vậy là gặp khó khăn gian khổ mới nhớ về quá khứ nghĩa tình. Khổ thơ này tạo bước ngoặt để tác giả bộc lộ cảm xúc.

– Hai khổ thơ sau : Lời thơ khi ngân nga thiết tha, rưng rưng xúc động gặp lại tri kỷ bị lãng quên, khi trầm lắng nặng trĩu suy tư như một sự hối hận, sự tự vấn.

* Giọng điệu:

– Giọng điệu tâm tình bằng thể thơ năm chữ, nhịp thơ khi tuôn chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo nhịp kể, khi ngân nga, khi trầm lắng suy tư. Tất cả những điều đó góp phần quan trọng trong việc bộc lộ những cảm xúc sâu xa của một người lính khi nghĩ về chiến tranh, về quá khứ.

Trả lời câu 4 (trang 157 sgk Ngữ Văn 9 Tập 1):

– Bài thơ viết năm 1978 sau hòa bình ba năm. Những người kháng chiến gian khổ ở rừng núi đã trở về thành phố. Họ có một cuộc sống mới thời bình. Các phương tiện sống khác xa thời chiến tranh. Câu chuyện riêng này là lời tự nhắc nhở thấm thía về thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa, đối với thiên nhiên, đất nước, bình dị hồn hậu.

– Bài thơ không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ mà có ý nghĩa đối với cả một thế hệ. Hơn thế bài thơ có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời, bởi vì nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với người đã khuất, với cả chính mình.

– Bài thơ nằm trong mạch cảm xúc “Uống nước nhớ nguồn” gợi đạo lý thủy chung tình nghĩa. Đó là truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Luyện tập

Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong bài Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn.

– Về quá khứ trước đây: sự gắn bó khăng khít của nhân vật trữ tình và vầng trăng.

– Hòa bình lập lại có sự thay đổi thế nào?

– Sự kiện nào khiến “tôi” nhận ra những sai lầm của mình.

– Rút ra bài học, ý nghĩa cho mình và những người khác.

Với tôi trăng như người bạn tri kỉ cùng tôi đi qua những năm tháng cuả tuổi thơ. Ngày ấy, tôi và trăng rất gần gũi, hồn nhiên, vô tư với nhau. Khi lớn lên, tôi tham gia chiến tranh, trăng cũng theo tôi vào ở rừng. Trong những ngày tháng gian lao ấy, trăng đã trở thành người bạn đồng hành cùng tôi qua những thăng trầm cuộc đời. Rồi hòa bình lập lại, tôi trở về thành phố với cuộc sống hiện đại, tiên nghi. Đắm chìm trong cuộc sống ấy, tôi vô tình đã lãng quên vầng trăng và quên đi cả lời hứa năm xưa của mình. Tôi đã quay lưng lại với vầng trăng, quay lưng lại với quá khứ, với thiên nhiên và chính mình. Trong một lần mất điện, tôi đã gặp lại vầng trăng. Trăng vẫn thế, vẫn tròn đầy, thủy chung và không trách cứ tôi nhưng tôi thấy thật ăn năn và hối hận vì sự vô tâm, bạc bẽo của mình.

Nội dung chính

Bài thơ là sự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước rất bình dị, hiền hậu. Qua đó nhắc nhở người đọc phải có một thái độ sống “ Uống nước nhớ nguồn”, thủy chung ân tình với quá khứ, nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết thức tỉnh lương.

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 2

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 5

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 2

Nguyễn Duy sinh năm 1948, quê ở Thanh Hoá.Năm 1966, Nguyễn Duy gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường. Sau. đó ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng.Từ năm 1977, Nguyễn Duy làm đại diện thường trú báo văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nguyễn Duy đã được Nhà nước trao giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ. Ông trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mĩ cứu nước.Tập thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam.

Với giọng điệu tâm tình, tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu.Bài thơ gợi lại những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời lính gắn hó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ còn là lời lự nhắc nhở của tác giả, là tâm sự của tác giả muốn gửi gắm: phải luôn nhớ về nguồn cội, đó là truyền thống đạo hiếu của dân tộc ta.Bài thơ có giọng điệu tâm tình, tự nhiên, hình ảnh giàu tính hiểu cảm.

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 3

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 5

Tác giả

– Nguyễn Duy tên khai sinh là Nguyễn Duy Nhuệ, sinh năm 1948, quê ở làng Quảng Xá, nay thuộc phường Đông Vệ, thành phố Thanh Hoá. Năm 1966, Nguyễn Duy gia nhập quân đội, vào binh chủng Thông tin, tham gia chiến đấu ở nhiều chiến trường. Sau năm 1975, ông chuyển về làm báo Văn nghệ giải phóng. Từ năm 1977, Nguyễn Duy là đại diện thường trú báo Văn nghệ tại Thành phố Hồ Chí Minh. Năm 2007, ông được tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.

– Nguyễn Duy đã được trao giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn nghệ năm 1972 – 1973. Ông trở thành một gương mặt tiêu biểu trong lớp nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước và tiếp tục bền bỉ sáng tác. Tập thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy đã được tặng giải A của Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.

Tác phẩm

– Bài thơ này được viết ra khi tác giả sống tại một chung cư cao tầng ở quận ba, thành phố Hồ Chí Minh, năm 1978. Lúc ấy chiến tranh vừa kết thúc được ba năm, những người chiến sĩ và đồng đội của tác giả đang hòa mình vào cuộc sống hòa bình chung, với nhiều hoàn cảnh, tâm trạng và tính cách rất khác nhau. Đó có lẽ là tứ thơ cho bài Ánh trăng này.

Đọc – hiểu văn bản

Câu 1 – Trang 157 SGK

Em có nhận xét gì về bố cục của bài thơ ?

Trả lời

Bài thơ gồm ba đoạn:

• Khổ 1 – khổ 3: Vầng trăng tình nghĩa từ quá khứ đến hiện tại.

• Khổ 4: Vầng trăng xuất hiện khi điện tắt.

• Khổ 5, khổ 6: Ánh trăng gợi lại bao nhiêu nghĩa tình.

Bài thơ như một câu chuyện được kể lại theo trình tự thời gian. Dòng cảm nghĩ trữ tình của nhà thơ thể hiện theo những dòng tự sự. Hồi nhỏ sống hồn nhiên, gần gũi với thiên nhiên ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa. Về thành phố rực ánh điện, vầng trăng như người dưng qua đường.

Câu 2 – Trang 157 SGK

Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm ?

– Nơi thành phố hiện đại lắm ánh điện, cửa gương làm người ta chẳng mấy lúc cần và cũng có ít khi chú ý đến ánh trăng. Ở tình huống đặc biệt mới tự nhiên gây ấn tượng mạnh.

– Vầng trăng là một hình ảnh của thiên nhiên hồn nhiên, tươi mát, là người bạn tri kỉ suốt tuổi thơ tới thời chiến tranh ở rừng. Trong phút chốc, sự xuất hiện đột ngột của vầng trăng làm ùa dậy ở tâm trí nhà thơ bao kỉ niệm của năm tháng gian lao, bao hình ảnh của thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu Như là đồng là bể – Như là sông là rừng hiện hình trong nỗi nhớ, trong hồi ức rưng rưng “của một con người đang sống giữa phố phường hiện đại.

– Vầng trăng có ý nghĩa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, hơn thế, trăng còn là vẻ đẹp bình dị và vĩnh hằng của đời sống.

Câu 3 – Trang 157 SGK

– Trong ba khổ thơ đầu, nhịp thơ trôi chảy tự nhiên, nhịp nhàng theo lời kể.

– Trong khổ 4 giọng thơ biến đổi, như ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của vầng trăng. Giọng điệu tâm tình qua thể thơ năm chữ.

– Giọng thơ thiết tha cảm xúc (khổ 5) rồi trầm lắng suy tư (khổ 6).

Giọng thơ của bài đã góp phần thể hiện sự kết hợp hài hoà giữa phương thức biểu đạt tự sự và trữ tình

Câu 4 – Trang 157 SGK

Trả lời:

Ánh trăng không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ (thế hệ từng trải qua những năm tháng dài gian khổ của chiến tranh, từng gắn bó với thiên nhiên, sống với nhân dân tình nghĩa, giờ được sống trong hoà bình, được tiếp xúc với nhiều tiện nghi hiện đại. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi nó đặt ra vấn đề thái độ với quá khứ, với những người đã khuất và cả đối với chính mình.

Yêu cầu: Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong bài Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn.

Ghi nhớ bài Ánh trăng

Với giọng điệu tâm tình tự nhiên, hình ảnh giàu tính biểu cảm, Ánh trăng của Nguyễn Duy như một lời tự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị, hiền hậu. Bài thơ có ý nghĩa gợi nhắc, củng cố ở người đọc thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuy chung cùng quá khứ.

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 4

Câu 2: Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ mang nhiều tầng ý nghĩa. Hãy phân tích điều ấy. Khổ thơ nào trong bài thể hiện tập trung nhất ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh vầng trăng, chiều sâu tư tưởng mang tính triết lí của tác phẩm?

Kết cấu: độc đáo, câu chuyện đi từ thực tại nhớ về quá khứ rồi trở lại đến hiện tại nhìn lại chính mình.

Giọng điệu: tâm tình, nhịp nhàng, lúc ngân nga, lúc suy tư trầm lắng.

Tác dụng: bộc lộ những cảm xúc sâu xa của nhân vật trữ tình.

[Luyện tập] Tưởng tượng mình là nhân vật trữ tình trong Ánh trăng, em hãy diễn tả dòng cảm nghĩ trong bài thơ thành một bài tâm sự ngắn.

Dòng cảm nghĩ: Tuổi thơ gắn bó với trăng, vui chơi hay lúc buồn đều có trăng bên cạnh. Lớn lên, đi lính, biết bao gian khó, cũng là Trăng đồng hành cùng chúng tôi, sẻ chia cay đắng, ngọt bùi. Chiến tranh kết thúc, hòa bình lập lại, cuộc sống thành phố khiến tôi quên dần, coi trăng chỉ như người qua đường. Một hôm mất điện, tối tăm chỉ riêng chó trăng tỏa sáng soi rọi. Tôi nhớ về quá khứ, rồi cay đắng nhận ra mình thật vô tình đã quên đi người bạn tri kỉ, còn trăng vẫn đó, vẫn luôn dõi theo, đồng hành cùng tôi. Lòng tôi nghẹn đắng, vừa thấy xấu hổ, vừa thấy có lỗi tự hứa bản thân sẽ không bao giờ như vậy nưa.

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 4

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 1

Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy số 4

Bố cục:

– Phần 1 (2 khổ đầu): ánh trăng gắn bó thời nghèo khó, gian khổ

– Phần 2 (3 khổ tiếp): Trăng xa lạ trong những ngày tháng sống ở thành phố

– Phần 3 (những khổ còn lại): con người thức tỉnh

Hướng dẫn soạn bài

Câu 1 (trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Bài thơ có bổ cục ba phần:

– Phần 1 (hai khổ đầu): vầng trăng gắn liền với những ngày nghèo khó của tuổi thơ

– Phần 2 (3 khổ thơ tiếp): Cuộc gặp gỡ đầy bất ngờ giữa con người với vầng trăng

– Phần 3 (2 khổ cuối): Sự thức tỉnh của con người

– Bài thơ được trình bày không theo thời gian tuyến tính, nhân vật trữ tình từ hiện tại nhớ về quá khứ

Câu 2 (trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

a, Hình ảnh vầng trăng trong bài thơ có nhiều tầng ý nghĩa:

+ Vầng trăng của thiên nhiên, đất trời

+ Trăng là người tri kỉ gắn bó với con người lúc gian khó

+ Trăng là tình cảm trong sáng, tốt đẹp trong con người, soi rọi, chiếu sáng những góc khuất, thức tỉnh con người

b, Khổ thơ cuối thể hiện biểu tượng của vầng trăng, chứa đựng tính triết lý

+ Trăng thủy chung, son sắt tượng trưng cho quá khứ đẹp đẽ, vẹn nguyên không thể phai mờ

+ Trăng là nhân chứng nghĩa tình, nghiêm khắc, sự im lặng nhắc nhở nhà thơ và mọi người

+ Con người có thể vô tình lãng quên thiên nhiên tình nghĩa, quá khứ thì trong đầy, bất diệt, hồn hậu, rộng lượng

Câu 3 (trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Kết cấu tác phẩm có nét độc đáo:

+ Bài thơ giống như câu chuyện, phát triển theo thời gian, trần trụi với thiên nhiên, thân thiết với vầng trăng

+ Qúa khứ nghèo khó nhưng gần gũi với vầng trăng, khi về thành phố, sống với tiện nghi, con người lãng quên quá khứ.

+ Tình huống tạo nên yếu tố bất ngờ khi con người với vầng trăng gặp lại, con người giật mình thức tỉnh, soi xét lại sự vô tình, thờ ơ của bản thân.

+ Giọng điệu thơ chậm dãi, nhịp nhàng theo lời kể, lúc lại suy tư. Tất cả góp phần quan trọng bộc lộ cảm xúc của nhân vật trữ tình

Câu 4 ( trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

– Bài thơ viết 1978 sau hòa bình ba năm. Người kháng chiến ở rừng trở về thành phố

+ Cuộc sống thời bình đầy đủ tiện nghi, con người lãng quên những ngày gian khổ trong quá khứ

– Bài thơ là lời nhắc nhở thái độ, tình cảm đối với quá khứ gian lao, tình nghĩa

– Lời nhắc nhở với thế hệ sau cần có thái độ sống uống nước nhớ nguồn, biết ơn những người đi trước mang lại thành quả

Bài 1 (trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Bài 2 (trang 157 sgk ngữ văn 9 tập 1)

Tôi là người lính may mắn trở về sau trận chiến, được hưởng niềm vui hòa bình, độc lập. Tôi sống ở thành thị, nơi có nhiều tiện nghi, nhà cửa sầm uất cho tới một ngày khi ánh điện vụt tắt, tôi bật tung cửa sổ, lúc này tôi và vầng trăng tình nghĩa năm xưa đối diện với nhau. Tôi bàng hoàng, ngỡ ngàng trước vẻ đẹp thủy chung nguyên vẹn của vầng trăng năm xưa. Tôi nhớ lại tuổi thơ cơ cực, thời chiến đấu gian lao vất vả có ánh trăng bên cạnh như người tri kỉ. Còn tôi, trong sự hiện đại, tiện nghi tôi đã quên mất quá khứ của mình, để giờ đây mọi sự hối hận dường như đã muộn. Tôi giật mình, nhìn lại mình, nhìn lại những ngày tháng mình hững hờ lãng quên quá khứ.

Đăng bởi: Trần Thị Ngọc Thảo

Từ khoá: 6 Bài soạn “Ánh trăng” của Nguyễn Duy lớp 9 hay nhất

Soạn Bài Thực Hành Về Thành Ngữ, Điển Cố Soạn Văn 11 Tập 1 Tuần 6 (Trang 66)

Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố

Mong rằng đây là sẽ là tài liệu hữu ích để học sinh lớp 11 có thể chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.

Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố – Mẫu 1

Câu 1. Đoạn thơ trong bài Thương vợ có sử dụng các thành ngữ:

Một duyên hai nợ: hàm ý về gánh nặng của bà Tú khi lấy chồng.

Năm nắng mười mưa: hàm ý chỉ sự vất vả, khó nhọc.

Các thành ngữ là các cụm từ cố định, ngắn gọn và có giá trị biểu cảm cao hơn. Chỉ với các thành ngữ trên những người đọc có thể thấy được hình ảnh bà Tú hiện lên chân thực.

Câu 2.

– Đầu trâu mặt ngựa: sự hung hãn, dã man của bọn nha lại, qua đó bộc lộ thái độ tức giận, bất bình của tác giả.

– Chim lồng cá chậu: cảnh sống tù túng, chật hẹp mặc dù vẻ ngoài hoa mĩ, thái độ mỉa mai, chế giễu cũng là xót xa.

– Đội trời đạp đất: lối sống và hành động tự do, không chịu sự bó buộc, khuất phục trước uy quyền; thái độ ngợi ca.

Câu 3.

Điển cố là những tích truyện xưa; thường là kể về các tấm gương hiếu thảo, anh hùng liệt sĩ, các tấm gương đạo đức, hoặc những truyện có tính triết lý nhân văn trong lịch sử, những câu thơ, văn kinh điển trong các tác phẩm văn học trước đó. (thường là của Trung Quốc)

Câu 4.

– Ba thu: điển cố trong Kinh Thi ý chỉ một ngày không gặp dài như ba mùa thu. Nỗi nhớ thương của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều.

– Chín chữ: điển cố trong Kinh Thi, ý chỉ công lao cha mẹ: sinh, cúc, phủ, súc,trưởng, dục, cố, phục, phúc. Kiều tưởng nhớ đến công lao cha mẹ đối với mình mà đau xót cho bổn phận làm con.

– Liễu Chương Đài: Kiều mường tượng cảnh Kim Trọng trở lại thì nàng đã thuộc về người khác mà xót xa cho chàng Kim.

– Mắt xanh: Chuyện xưa kể rằng Nguyễn Tịch đời Tấn quý ai thì tiếp bằng mắt xanh (lòng đen của mắt), không ưa ai thì mắt trắng (lòng trắng). Dẫn điển cố này để nói về cách nhìn nhận của Từ Hải về phẩm giá của nàng Kiều; mặc dù phải sống trong chốn lầu xanh, phải tiếp nhiều khách làng chơi, nhưng nàng chưa hề quý ai.

Câu 5.

a. Này các cậu, đừng có mà bắt nạt người mới. Cậu ấy vừa mới đến, mình phải tìm cách giúp đỡ chứ.

b. Họ không đi tham quan, không đi thực tế kiểu đại khái, qua loa mà đi chiến đấu thực sự, đi làm nhiệm vụ của những chiến sĩ bình thường.

Câu 6.

Chúc chị mẹ tròn con vuông.

Cháu còn ít tuổi mà đã đòi trứng khôn hơn vịt.

Sau nhiều ngày nấu sử sôi kinh, Hạnh đã thi đỗ với số điểm cao.

Hắn ta là kẻ có lòng lang dạ thú.

Anh ta mới mua được cái xe mà đã mở tiệc linh đình, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.

Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu nữa.

Mày đúng là đồ nước đổ đầu vịt.

Chúng ta nên sống dĩ hòa vi quý.

Anh ấy đúng là con nhà lính, tính nhà quan.

Cô ta thấy người sang bắt quàng làm họ.

Câu 7.

Ai cũng có gót chân A-sin cả.

Anh ta làm ăn thua lỗ, giờ đang nợ như chúa Chổm.

Cậu ta chẳng có chính kiến, chẳng khác gì đẽo cày giữa đường.

Hắn ta là một gã Sở Khanh.

Với sức trai Phù Đổng, anh ấy có thể làm nên việc lớn.

– Tôi chúc cậu được mẹ tròn con vuông.

– Mày mà còn đòi trứng khôn hơn vịt.

– Tôi đã thi đỗ đại học, thật bõ công những ngày nấu sử sôi kinh.

– Tôi không ngờ anh là con người lòng lang dạ sói như vậy.

– Con anh ta đỗ vào cấp ba thôi mà phải mời cả họ đến, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.

– Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu.

– Mẹ dặn con như vậy mà như nước đổ đầu vịt.

– Mình nên dĩ hòa vi quý, anh ạ.

– Cậu ta đúng là con nhà lính, tính nhà quan.

– Mày đừng thấy người sang, bắt quàng làm họ.

Soạn bài Thực hành về thành ngữ, điển cố – Mẫu 2

Câu 1. Tìm thành ngữ trong đoạn thơ sau, phân biệt với từ ngữ thông thường về mặt cấu tạo và đặc điểm ý nghĩa.

(Trần Tế Xương, Thương vợ)

Thành ngữ: một duyên hai nợ, năm nắng mười mưa

Phân biệt: Thành ngữ là các cụm từ cố định, ngắn gọn và giàu giá trị biểu cảm.

Câu 2. Phân tích giá trị nghệ thuật của các thành ngữ in đậm trong các câu thơ sau:

(Nguyễn Du)

Gợi ý:

– Khắc họa vẻ hung bạo, độc ác của bọn quan lại.

– Cho thấy cảnh tù túng, chật hẹp.

– Cuộc sống tự do, không chịu khuất phục trước uy quyền.

Câu 3. Đọc lại chú thích về những điển cố in đậm ở hai câu thơ sau trong bài Khóc Dương Khuê và cho biết thế nào là điển cố

(Nguyễn Khuyến, Khóc Dương Khuê)

Điển cố là những tích truyện xưa; thường là kể về các tấm gương hiếu thảo, anh hùng liệt sĩ, các tấm gương đạo đức, hoặc những truyện có tính triết lý nhân văn trong lịch sử, những câu thơ, văn kinh điển trong các tác phẩm văn học trước đó. (thường là của Trung Quốc)

Câu 4. Dựa vào chú thích trong các văn bản đã học, hãy phân tích tính hàm súc, thâm thúy của điển cố trong những câu thơ sau:

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Gợi ý:

– Ba thu: Điển cố trong Kinh Thi, Chỉ một ngày không gặp mà dài tự như ba mùa thu qua. Qua đó, tác giả muốn gửi gắm nỗi nhớ thương của Kim Trọng dành cho Thúy Kiều.

– Chín chữ: Điển cố trong Kinh Thi. Chỉ công lao của cha mẹ gồm có chín chữ là sinh, cúc, phủ, súc, trưởng, dục, cố, phục, phúc. Ở đây, Kiều tưởng nhớ đến công lao cha mẹ đối với mình mà đau xót cho bổn phận làm con.

– Liễu Chương Đài: Kiều mường tượng cảnh Kim Trọng trở lại thì nàng đã thuộc về người khác mà xót xa cho chàng Kim.

– Mắt xanh: Chuyện xưa kể rằng Nguyễn Tịch đời Tấn quý ai thì tiếp bằng mắt xanh (lòng đen của mắt), không ưa ai thì mắt trắng (lòng trắng). Cho thấy cách nhìn của Từ Hải về phẩm giá của nàng Kiều.

Advertisement

Câu 5. Thay thế thành ngữ trong các câu sau bằng những từ ngữ thông thường, tương đương về nghĩa:

a. Này các cậu, đừng có mà bắt nạt người mới đến. Cậu ấy vừa mới đến, mình phải tìm cách giúp đỡ chứ.

b. Họ không đi tham quan, không đi thực tế kiểu qua loa mà đi chiến đấu thực sự, đi làm nhiệm vụ của những người chiến sĩ bình thường.

Câu 6. Đặt câu với mỗi thành ngữ sau:

– mẹ tròn con vuông

– trứng khôn hơn vịt

– nấu sử sôi kinh

– lòng lang dạ sói

– phú quý sinh lễ nghĩa

– đi guốc trong bụng

– nước đổ đầu vịt

– dĩ hòa vi quý

– con nhà lính, tính nhà quan

– thấy người sang, bắt quàng làm họ

Gợi ý:

– Tôi chúc cậu được mẹ tròn con vuông.

– Mày mà còn đòi trứng khôn hơn vịt.

– Tôi đã thi đỗ đại học, thật bõ công những ngày nấu sử sôi kinh.

– Tôi không ngờ anh là con người lòng lang dạ sói như vậy.

– Con anh ta đỗ vào cấp ba thôi mà phải mời cả họ đến, đúng là phú quý sinh lễ nghĩa.

– Tớ chẳng đi guốc trong bụng cậu.

– Mẹ dặn con như vậy mà như nước đổ đầu vịt.

– Mình nên dĩ hòa vi quý, anh ạ.

– Cậu ta đúng là con nhà lính, tính nhà quan.

– Mày đừng thấy người sang, bắt quàng làm họ.

Câu 7. Đặt câu với mỗi điển cố sau:

– Gót chân A-sin

– nợ như chúa Chổm

– đẽo cày giữa đường

– gã Sở Khanh

– sức trai Phù Đổng

Gợi ý:

– Gót chân A-sin của tôi là quá mềm lòng.

– Ông ta vừa mới phá sản, giờ nợ như chúa Chổm.

– Anh đúng là đẽo cày giữa đường, ai nói gì cũng nghe theo.

– Cậu nên tránh xa gã Sở Khanh đó.

– Thanh niên hãy thể hiện sức trai Phù Đổng, làm việc lớn giúp đời.

Cập nhật thông tin chi tiết về 6 Bài Soạn: “Thầy Thuốc Giỏi Cốt Nhất Ở Tấm Lòng” Lớp 6 Hay Nhất trên website Hwmn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!